Bản tin Thuế tháng 08/2017

Bấm vào để phóng to

I. Thông báo thời hạn nộp tờ khai thuế trong kỳ kê khai Tháng 08/2017

Bkav xin thông báo, do ngày cuối của kỳ lập bộ Tháng 08/2017 trùng với ngày nghỉ (ngày Chủ nhật) nên theo Quy định tại khoản 4 điều 8 thông tư số 156/2013/TT-BTC "Trường hợp ngày cuối cùng của thời hạn giải quyết thủ tục hành chính trùng với ngày nghỉ theo quy định thì ngày cuối cùng của thời hạn được tính là ngày làm việc tiếp theo của ngày nghỉ đó".

Như vậy, kỳ lập bộ Tháng 08/2017 sẽ hết hạn vào thứ Hai ngày 21/08/2017 đối với tờ khai Tháng 07/2017. Bkav xin trân trọng thông báo để Quý khách hàng được biết và thực hiện kê khai, nộp tờ khai đúng hạn.

Bkav lưu ý Quý khách hàng nên kê khai, nộp tờ khai trước thời gian hết hạn để tránh việc quá tải, không gửi được tờ khai.

Trong quá trình kê khai, nếu gặp vấn đề cần hỗ trợ, Quý Khách hàng vui lòng xem Hướng dẫn xử lý vấn đề thường gặp tại địa chỉ http://hd.noptokhai.vn. Quý Khách hàng cũng có thể liên hệ với Trung tâm Chăm sóc khách hàng Bkav CA qua email BkavCA@bkav.com hoặc số điện thoại 1900 18 54 để được hỗ trợ kịp thời.

Ngoài ra, để tham khảo Hướng dẫn và trao đổi các vấn đề thường gặp trong quá trình sử dụng, Quý Khách hàng truy cập Fanpage Bkav CA tại địa chỉ https://www.facebook.com/BkavCA.

II. Đề xuất mới về thuế GTGT, khuyến khích xuất khẩu

Bộ Tài chính vừa công bố lấy ý kiến góp ý vào dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 100/2016/NĐ-CP (NĐ 100) và Nghị định số 12/2015/NĐ-CP (NĐ 12) của Chính phủ theo hướng tạo thuận lợi cho người nộp thuế, khuyến khích xuất khẩu.

Khuyến khích xuất khẩu, ngăn chặn lợi dụng chính sách

Theo Bộ Tài chính, từ khi triển khai thực hiện quy định tại NĐ 100 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT), Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) và Luật Quản lý thuế, đến nay, nhiều hiệp hội, doanh nghiệp (DN) gửi văn bản đến Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài chính nêu vướng mắc và đề nghị hướng dẫn chi tiết để thực hiện.

Nội dung đề nghị chủ yếu tập trung làm rõ sản phẩm nào thuộc đối tượng phải xác định trị giá tài nguyên, khoáng sản cộng chi phí năng lượng khi xuất khẩu để áp dụng thuế GTGT cho phù hợp? Trị giá tài nguyên, khoáng sản đưa vào chế biến sản phẩm xuất khẩu có bao gồm chi phí vận chuyển tài nguyên, khoáng sản từ nơi khai thác về nơi chế biến? Bên cạnh đó, quy định không hoàn thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu sau đó xuất khẩu đã có cách hiểu khác dẫn đến trong quá trình thực hiện phát sinh vướng mắc cần thiết phải sửa đổi, bổ sung để phù hợp với chủ trương khuyến khích xuất khẩu hàng hóa.

Ngoài ra, qua công tác thanh tra, kiểm tra cho thấy, một số DN, đặc biệt là DN nhà nước đã chi mua bảo hiểm nhân thọ cho người lao động với giá trị cao so với mức tiền lương, thu nhập của cán bộ công nhân viên và cao hơn nhiều lần so với mức khống chế theo quy định trước đây. Kiểm toán Nhà nước cho rằng, nếu không khống chế mức mua bảo hiểm nhân thọ sẽ dẫn đến các DN nhà nước vận dụng chi mua bảo hiểm nhân thọ ở mức cao, không hợp lý, đồng thời hạch toán vào chi phí được trừ, từ đó ảnh hưởng đến việc thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, phần vốn nhà nước khi xác định giá trị DN.

Do vậy, cần thiết phải ban hành nghị định để tạo thuận lợi cho người nộp thuế, khuyến khích xuất khẩu. Đồng thời sửa đổi, bổ sung việc khống chế mức chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập DN (TNDN) đối với khoản chi mua bảo hiểm nhân thọ cho người lao động để tránh lợi dụng chính sách làm giảm nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước.

Quy định chi tiết đối tượng chịu thuế GTGT 0%

Theo Bộ Tài chính, dự thảo nghị định bao gồm 3 điều. Trong đó, để tránh cách hiểu khác và tạo thuận lợi cho DN xuất khẩu, Bộ Tài chính đề xuất Chính phủ quy định chi tiết một số trường hợp không thuộc đối tượng áp dụng đối tượng không chịu thuế GTGT và được áp dụng thuế GTGT 0% khi xuất khẩu.

Cụ thể: Sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên, khoáng sản khai thác chưa chế biến thành sản phẩm khác.

Sản phẩm xuất khẩu là hàng hóa được chế biến trực tiếp từ nguyên liệu chính là tài nguyên, khoáng sản có tổng trị giá tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản xuất sản phẩm trở lên, trừ các trường hợp sau:

Sản phẩm xuất khẩu được chế biến từ tài nguyên, khoáng sản do cơ sở kinh doanh trực tiếp khai thác và chế biến mà trong quy trình chế biến đã thành sản phẩm khác sau đó lại tiếp tục chế biến ra sản phẩm xuất khẩu (quy trình chế biến khép kín hoặc thành lập phân xưởng, nhà máy chế biến theo từng công đoạn) thì sản phẩm xuất khẩu thuộc đối tượng áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% nếu đáp ứng được các điều kiện theo quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 12 Luật số 13/2008/QH12.

Sản phẩm xuất khẩu được chế biến từ tài nguyên, khoáng sản do cơ sở kinh doanh mua về chế biến mà trong quy trình chế biến đã thành sản phẩm khác sau đó lại tiếp tục chế biến ra sản phẩm xuất khẩu (quy trình chế biến khép kín hoặc thành lập phân xưởng, nhà máy chế biến theo từng công đoạn) thì sản phẩm xuất khẩu này thuộc đối tượng áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% nếu đáp ứng được các điều kiện theo quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 12 Luật số 13/2008/QH12.

Sản phẩm xuất khẩu được chế biến từ nguyên liệu chính không phải là tài nguyên, khoáng sản (tài nguyên, khoáng sản đã chế biến thành sản phẩm khác) do cơ sở kinh doanh mua về chế biến thành sản phẩm xuất khẩu thì sản phẩm xuất khẩu này thuộc đối tượng áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% nếu đáp ứng được các điều kiện theo quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 12 Luật số 13/2008/QH12.

Cũng tại dự thảo nghị định, Bộ Tài chính đề xuất Chính phủ có hướng dẫn rõ các trường hợp thuộc đối tượng được hoàn thuế GTGT để khuyến khích các DN nhập khẩu hàng hóa sau đó thực hiện xuất bán vào khu phi thuế quan, xuất bán sang nước khác.

Cụ thể, về việc không hoàn thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu sau đó xuất khẩu để phù hợp với thực tế và khuyến khích xuất khẩu hàng hóa, Bộ Tài chính đề xuất Chính phủ quy định chi tiết như sau: Hàng hóa nhập khẩu sau đó xuất bán vào khu phi thuế quan; hàng hóa nhập khẩu sau đó xuất khẩu ra nước ngoài hoặc xuất trả lại chủ hàng thì thuộc đối tượng được hoàn thuế GTGT trừ trường hợp hàng hóa nhập khẩu sau đó xuất khẩu không thực hiện xuất khẩu tại địa bàn hoạt động hải quan theo quy định của Luật Hải quan và các văn bản hướng dẫn.

Ngoài ra tại dự thảo, Bộ Tài chính cũng đề xuất Chính phủ sửa đổi, bổ sung quy định khống chế mức chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN đối với khoản chi mua bảo hiểm nhân thọ cho người lao động. Cụ thể, sửa đổi, bổ sung điểm o khoản 2 Điều 9 Nghị định số 218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2013 của Chính phủ đã được sửa đổi, bổ sung tại khoản 7, Điều 1 NĐ 12. Trong đó, quy định phần chi vượt mức 3 triệu đồng/tháng/người để: Trích nộp quỹ hưu trí tự nguyện, mua bảo hiểm hưu trí tự nguyện, bảo hiểm nhân thọ cho người lao động; phần vượt mức quy định của pháp luật về BHXH, về bảo hiểm y tế để trích nộp các quỹ có tính chất an sinh xã hội (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm hưu trí bổ sung bắt buộc), quỹ bảo hiểm y tế và quỹ bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động

(Nguồn: Thoibaotaichinhvietnam.vn; Xem chi tiết tại đây)

III. Tăng khung thuế: Khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ vì môi trường

Khung thuế bảo vệ môi trường (BVMT) đánh vào mỗi lít xăng hiện từ 1.000 – 4.000 đồng/lít và đang được áp dụng ở mức 3.000 đồng/lít.

Theo nhiều chuyên gia, việc nâng khung lên 3.000 – 8.000 đồng/lít là phù hợp, nhằm áp dụng linh hoạt theo tình hình thế giới và khu vực, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế và chống ô nhiễm môi trường.

Ngân sách dành 2% tổng chi cho đầu tư BVMT

Một nghiên cứu mới đây của Ngân hàng Thế giới năm 2016 cho thấy, tổng thiệt hại phúc lợi xã hội toàn cầu do tác động gây tử vong của ô nhiễm không khí lên tới khoảng trên 5.000 tỷ USD. Ở Việt Nam, những thiệt hại này ước tính khoảng 800 triệu USD trong các lĩnh vực sức khỏe cộng đồng và có thể chịu tổn thất môi trường lên tới 5,5% GDP hàng năm.

Để bảo vệ môi trường, bảo đảm an toàn cho cộng đồng và xã hội, theo số liệu thống kê của Bộ Tài chính, giai đoạn năm 2012 – 2016 ngân sách nhà nước đã chi cho BVMT lên đến 131.857 tỷ đồng, chiếm đến 2% tổng chi ngân sách nhà nước giai đoạn này.

Trong khi đó, việc sử dụng xăng dầu được nhìn nhận là gây tác hại xấu, làm ô nhiễm môi trường. Đặc biệt, ô nhiễm không khí do khí thải khói xe máy đang là mối đe dọa nghiêm trọng tới sức khỏe con người và sự phát triển kinh tế của các đô thị lớn. Việt Nam lại là một trong những quốc gia có số lượng xe máy tham gia giao thông nhiều nhất trên thế giới. Nhưng điều đáng nói là người dân chưa ý thức hết được tác hại của khí thải ô tô, xe máy và lựa chọn nhiên liệu để giảm khí thải độc hại.

Ngoài ra, theo bảng xếp hạng của trang web GlobalPerolPrice.com (tại ngày 19/06/2017), giá bán lẻ xăng dầu của Việt Nam đang ở mức thấp (trong 170 nước thì có tới 128 nước có giá bán lẻ xăng dầu cao hơn Việt Nam). Trong khu vực, nhất là các nước có chung đường biên giới, giá xăng dầu của Việt Nam cũng thấp hơn, nên thường xuyên có tình trạng buôn lậu xăng dầu qua biên giới.

Xuất phát từ thực tế này, tại hội thảo “Hoàn thiện chính sách thuế, phí BVMT” vừa diễn ra tại TP. Hồ Chí Minh, đa số các đại biểu tham dự đều có chung nhận định, cần có giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa trách nhiệm và nhận thức của tổ chức, cá nhân đối với môi trường. Đồng thời khuyến khích sản xuất, sử dụng hàng hóa thân thiện với môi trường; đảm bảo thực hiện cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế về BVMT. Trong đó, nâng khung thuế BVMT đối với xăng dầu được cho là giải pháp hợp lý nhất, thích hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay, góp phần thay đổi ý thức sử dụng của người dân, giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường

Theo ông Vũ Khắc Liêm, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế (Bộ Tài chính), khung thuế BVMT đang được Bộ Tài chính đề xuất điều chỉnh từ 1.000 - 4.000 đồng/lít hiện hành lên 3.000 - 8.000 đồng/lít.

Tăng thuế kịch khung, giá xăng dầu vẫn thấp hơn khu vực

Tại hội thảo, đại diện Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh (Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam) cho rằng, việc nâng khung thuế BVMT đối với xăng dầu lên mức từ 3.000 đồng/lít đến 8.000 đồng/lít như đề xuất của Bộ Tài chính thực chất là không cao, kể cả trong trường hợp áp mức cao nhất thì giá xăng dầu của Việt Nam vẫn thấp hơn một số nước trong khu vực.

Còn theo PGS.TS Hồ Quốc Bằng, Viện Môi trường và Tài nguyên, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, xét về mặt hiệu quả kinh tế, việc nâng khung thuế BVMT sẽ giảm được những chi phí kinh tế trong quản lý so với các biện pháp điều hành và kiểm soát, trước hết là bộ máy quản lý thực thi pháp luật. “Mặt khác, nếu sử dụng tốt công cụ kinh tế, đặc biệt là thuế, ngân sách sẽ có điều kiện để tăng đầu tư trở lại cho môi trường. Đồng thời, công cụ kinh tế sẽ tạo ra động cơ khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ thân thiện với môi trường, qua đó chất lượng sản phẩm cũng tốt hơn”, PGS.TS Bằng nói.

Ở góc độ khác, Thạc sĩ Nguyễn Thị Kim Chi, Đại học Tài chính – Marketing TP. Hồ Chí Minh nhận định, ô nhiễm môi trường là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm suy thoái chất lượng cuộc sống trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Do đó, cơ quan chức năng khuyến khích người dân sử dụng các loại xăng sinh học (E5, E10...) bằng cách đánh thuế BVMT ít hơn so với các loại xăng khác (A92, A95…), vừa giảm được gánh nặng về ô nhiễm môi trường vừa tận dụng lợi ích từ xăng sinh học.

Đồng quan điểm này, Tiến sĩ Vương Thị Thu Hiền, Học viện Tài chính cho rằng, việc điều chỉnh khung thuế BVMT đối với xăng dầu sẽ góp phần đảm bảo giá bán lẻ xăng dầu trong nước phù hợp với giá bán lẻ xăng dầu của các nước trong khu vực, góp phần hạn chế buôn lậu xăng dầu. Thuế BVMT cũng thể hiện mức độ điều tiết của Nhà nước đối với hàng hóa gây tác động xấu đến môi trường, đồng thời khuyến kích người tiêu dùng sử dụng xăng dầu sinh học.

“Ngoài việc giảm đáng kể lượng khí thải độc thải ra môi trường, việc sử dụng xăng sinh học còn giúp phát triển vùng nguyên liệu cho quá trình sản xuất ethanol (sắn, mía, tảo...) góp phần tạo thảm thực vật xanh, làm giảm ảnh hưởng của bão lũ, xói mòn…”, Tiến sĩ Hiền nói.

“Bộ Tài chính mới đề xuất điều chỉnh khung thuế BVMT đối với xăng dầu trên cơ sở tính toán nhiều yếu tố để đảm bảo tính ổn định của Luật Thuế BVMT áp dụng cho thời gian dài. Mức thuế BVMT cụ thể đối với xăng vẫn áp dụng như hiện hành là 3.000 đồng/lít ”, ông Vũ Khắc Liêm Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế (Bộ Tài chính) cho biết.

(Nguồn: Thoibaotaichinhvietnam.vn; Xem chi tiết tại đây)

IV. Thủ tục về thuế khi thay đổi trụ sở chi nhánh

Nhằm giải đáp vướng mắc của một số doanh nghiệp về thủ tục về thuế khi thay đổi trụ sở chi nhánh, ngày 15/07/2017, Tổng cục Thuế có công văn số 2956/TCT-CS giải đáp cụ thể vấn đề này.

Theo đó, căn cứ quy định tại Điều 12 Thông tư số 95/2016/TT-BTC ngày 28/06/2016 của Bộ Tài chính hướng dẫn về đăng ký thuế đã quy định: Việc thay đổi thông tin đăng ký thuế thực hiện theo quy định tại Điều 27 Luật Quản lý thuế, cụ thể:

Trường hợp người nộp thuế là doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức khác, hộ gia đình, nhóm cá nhân, cá nhân kinh doanh có thay đổi địa chỉ trụ sở dẫn đến thay đổi cơ quan thuế quản lý, được quy định tại Khoản 2, Điều 13 của Thông tư.

Tại cơ quan thuế nơi người nộp thuế chuyển đi thì hồ sơ bao gồm: Tờ khai Điều chỉnh thông tin đăng ký thuế mẫu số 08-MST ban hành kèm theo Thông tư này…

Tại cơ quan thuế nơi người nộp thuế chuyển đến: Doanh nghiệp thực hiện đăng ký tại cơ quan đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật doanh nghiệp, Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/09/2015 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành”.

Về xử lý hồ sơ thay đổi thông tin đăng ký thuế và trả kết quả, Điều 15 Thông tư quy định: Trường hợp người nộp thuế thay đổi địa chỉ trụ sở kinh doanh dẫn đến thay đổi cơ quan thuế quản lý. Người nộp thuế thay đổi địa chỉ trụ sở sang tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khác:

Tại cơ quan thuế nơi người nộp thuế chuyển đi người nộp thuế có trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ thuế trước khi thay đổi địa chỉ trụ sở sang tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khác theo quy định tại Khoản 2, Điều 8 Nghị định số 83/2013/NĐ-CP ngày 22/07/2013 của Chính phủ.

Cơ quan thuế chuyển đi thực hiện đối chiếu nghĩa vụ đến thời điểm thay đổi địa chỉ trụ sở với người nộp thuế, lập thông báo người nộp thuế chuyển địa điểm mẫu số 09-MST ban hành kèm theo Thông tư này, gửi 1 bản cho người nộp thuế, 1 bản cho cơ quan thuế nơi người nộp chuyển đến để thông báo về tình hình thực hiện nghĩa vụ của người nộp thuế theo quy định Khoản 2, Điều 8 Nghị định số 83/2013/NĐ-CP.

Thời gian giải quyết hồ sơ thay đổi thông tin đăng ký thuế của cơ quan thuế: Chậm nhất không quá 10 ngày làm việc kể từ ngày cơ quan thuế nhận được hồ sơ đăng ký thuế đầy đủ theo quy định của người nộp thuế.

Tại cơ quan thuế nơi người nộp thuế chuyển đến, cơ quan thuế căn cứ hồ sơ chuyển địa điểm của người nộp thuế, thông tin thay đổi địa chỉ trụ sở của cơ quan đăng ký kinh doanh (đối với doanh nghiệp), cập nhật thông tin đăng ký thuế của người nộp thuế trên Hệ thống ứng dụng đăng ký thuế để tiếp tục quản lý người nộp thuế.

Người nộp thuế do Chi cục Thuế quản lý thay đổi địa chỉ trụ sở trong cùng địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhưng khác quận, huyện, thành phố trực thuộc tỉnh:

Tại cơ quan thuế nơi người nộp thuế chuyển đi cơ quan thuế thực hiện đối chiếu nghĩa vụ đến thời điểm thay đổi địa chỉ trụ sở với người nộp thuế, lập thông báo người nộp thuế chuyển địa điểm mẫu số 09-MST ban hành kèm theo Thông tư này gửi 01 bản cho người nộp thuế, 01 bản cho cơ quan thuế nơi người nộp thuế chuyển đến để thông báo tình hình thực hiện nghĩa vụ của người nộp thuế.

Thời gian giải quyết hồ sơ thay đổi thông tin đăng ký thuế của cơ quan thuế chậm nhất không quá 10 ngày làm việc, kể từ ngày cơ quan thuế nhận được hồ sơ đăng ký thuế đầy đủ theo quy định của người nộp thuế.

Tại cơ quan thuế nơi người nộp thuế chuyển đến, cơ quan thuế căn cứ hồ sơ chuyển địa điểm của người nộp thuế, thông tin thay đổi địa chỉ trụ sở của cơ quan đăng ký kinh doanh (đối với doanh nghiệp), cập nhật thông tin đăng ký thuế của người nộp thuế trên Hệ thống ứng dụng đăng ký thuế để tiếp tục quản lý người nộp thuế”.

Căn cứ các quy định nêu trên thì người nộp thuế có trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ thuế trước khi thay đổi địa chỉ trụ sở sang tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khác theo quy định tại Khoản 2, Điều 8 Nghị định số 83/2013/NĐ-CP ngày 22/07/2013.

Người nộp thuế nộp hồ sơ thay đổi thông tin theo quy định tại Điều 13 Thông tư số 95/2016/TT-BTC, sau đó cơ quan thuế nơi người nộp thuế chuyển đi thực hiện đối chiếu nghĩa vụ đến thời điểm thay đổi địa chỉ trụ sở với người nộp thuế chậm nhất không quá 10 ngày làm việc kể từ ngày cơ quan thuế nhận được hồ sơ đăng ký thuế đầy đủ theo quy định của doanh nghiệp.

Trường hợp tổ chức kinh doanh thay đổi tên, địa chỉ có các số hóa đơn đã thực hiện thông báo phát hành nhưng chưa sử dụng hết có in sẵn tên, địa chỉ trên hóa đơn thực hiện kê khai theo mẫu số 3.13 Phụ lục 3 ban hành kèm theo Thông tư số 39/2014/TT-BTC.

(Nguồn: Tapchitaichinh.vn; Xem chi tiết tại đây)

V. Gần 100% doanh nghiệp thực hiện kê khai thuế qua mạng

Hiện nay trên 98% doanh nghiệp đang hoạt động thực hiện kê khai thuế qua mạng và trên 95% số tiền thuế được thực hiện nộp theo phương thức điện tử.

Ông Mai Sơn, Phó Cục trưởng Cục Thuế Hà Nội cho biết, từ đầu năm đến nay, Cục Thuế Hà Nội đã đẩy mạnh triển khai đồng bộ, quyết liệt với nhiều giải pháp hiệu quả, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin vào từng khâu, từng bước công việc và đã đạt được những kết quả nổi bật, tạo sự đột phá trong công tác quản lý thuế.

Cục Thuế Hà Nội cũng là đơn vị được Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế lựa chọn triển khai thí điểm nhiều chương trình, đề án cải cách, hiện đại hóa như: Thí điểm đề án hóa đơn điện tử có xác thực; chương trình hoàn thuế điện tử; vận hành ứng dụng khai thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân điện tử đối với hoạt động cho thuê nhà của cá nhân…

Công tác kê khai thuế qua mạng, nộp thuế điện tử tiếp tục được Cục Thuế Hà Nội duy trì, nâng cao chất lượng.

Do đó, hiện nay trên 98% doanh nghiệp đang hoạt động thực hiện kê khai thuế qua mạng và trên 95% số tiền thuế được thực hiện nộp theo phương thức điện tử, vượt chỉ tiêu theo Nghị quyết 19 của Chính phủ, đã góp phần giảm thời gian, chi phí cho người nộp thuế và cơ quan thuế.

Thực hiện thành công đề án đăng ký, cấp mã số doanh nghiệp tự động cấp độ 4, việc đăng ký kinh doanh, thành lập doanh nghiệp và cấp mã số doanh nghiệp tự động được thực hiện trong thời gian không quá 30 phút, chỉ bằng 12,5% thời gian so với quy định là 4 tiếng đồng hồ.

Riêng việc thí điểm khai và nộp lệ phí trước bạ ô tô, xe máy điện tử, đơn vị đã chủ động phối hợp với cơ quan công an, kho bạc nhà nước xây dựng, nâng cấp ứng dụng và triển khai tại 2 Chi cục Thuế quận Ba Đình và quận Hai Bà Trưng, thời gian tới sẽ thực hiện đồng bộ trên toàn thành phố.

“Chúng tôi tiếp tục phối hợp với các sở, ngành liên quan trong việc quy định về hồ sơ và trình tự, thủ tục tiếp nhận, luân chuyển hồ sơ xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai trên địa bàn, qua đó đã rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ từ 5 ngày xuống 3 ngày; nâng cao tính công khai, minh bạch, rõ người, rõ việc để người dân, doanh nghiệp nắm được thời gian giải quyết hồ sơ ở từng bộ phận, từng cơ quan, tạo được sự đồng thuận của người dân và xã hội”, ông Mai Sơn cho biết.

Đặc biệt, đến nay Cục Thuế Hà Nội đã hoàn thành việc triển khai hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001 - 2008 tại Văn phòng Cục và 30 Chi cục Thuế quận, huyện, thị xã, trước tiến độ của thành phố Hà Nội đặt ra (năm 2018) và là đơn vị đầu tiên của thành phố Hà Nội triển khai tiêu chuẩn ISO 9001 - 2008 trong toàn bộ hệ thống.

(Nguồn: Bnews.vn; Xem chi tiết tại đây)

VI. Sẽ quy định rõ thời điểm nộp giấy phép khi làm thủ tục hải quan

Để xử lý những bất cập phát sinh trong thời gian qua liên quan đến thời điểm nộp giấy phép khi thực hiện thủ tục hải quan, Tổng cục Hải quan đang dự kiến đưa vào dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 08/2015/NĐ-CP quy định “Trường hợp hàng hóa XK, NK thuộc diện phải có giấy phép của cơ quan quản lý chuyên ngành thì phải có giấy phép trước khi đăng ký tờ khai hải quan”.

Theo khoản 1 Điều 4 Nghị định 187/2013/NĐ-CP quy định “Hàng hóa XK, NK theo giấy phép, thương nhân muốn XK, NK phải có giấy phép”.

Về nguyên tắc, căn cứ vào quy định nêu trên, các cơ quan quản lý chuyên ngành sẽ quy định thời điểm nộp giấy phép cho cơ quan Hải quan trong các văn bản quy phạm pháp luật tương ứng. Tuy nhiên, trên thực tế hầu hết các văn bản này không quy định thời điểm nộp giấy phép. Một số văn bản có nêu thời điểm nhưng chung chung, không nêu cụ thể thời điểm, chẳng hạn như “khi làm thủ tục hải quan” hoặc “khi làm thủ tục NK”.

Theo Tổng cục Hải quan, nhiều văn bản quy định chính sách quản lý đối với hàng hóa XNK là giấy phép nhưng có văn bản quy định thời điểm nộp, có văn bản không quy định; có văn bản đã quy định nhưng có nhiều cách hiểu khác nhau (ví dụ, nếu quy định “khi làm thủ tục hải quan” có thể hiểu là cơ quan Hải quan chấp nhận cho nộp giấy phép từ khi đăng kí tờ khai cho đến trước khi thông quan hoặc ngay khi bắt đầu thực hiện thủ tục hoặc khi nộp hồ sơ hải quan mới phải có giấy phép…)

Những quy định không rõ ràng dẫn đến việc cơ quan Hải quan rất khó khăn trong việc xác định thời điểm chấp nhận giấy phép, một vài trường hợp dẫn đến tranh chấp giữa cơ quan Hải quan và người khai hải quan.

Thông tư 12/2015/TT-BCT của Bộ Công Thương về giấy phép NK tự động thép là một ví dụ. Thông tư này quy định về người XK, NK phải có Giấy phép khi làm thủ tục hải quan, không quy định cụ thể thời điểm nào của quá trình làm thủ tục hải quan (do thủ tục hải quan bao gồm quá trình từ khi người khai hải quan đăng ký tờ khai hải quan đến khi thông quan hàng hóa). Việc này gây khó khăn đối với việc xử lý các lô hàng thép NK thời gian qua do có thay đổi chính sách (áp thêm thuế tự vệ).

Để được áp dụng mức thuế cũ, DN cần phải có giấy phép ngay tại thời điểm đăng ký tờ khai hải quan và trước khi chính sách mới có hiệu lực. Tuy nhiên, có những trường hợp DN đăng ký tờ khai trước thời điểm chính sách mới có hiệu lực nhưng giấy phép thì được cấp/xuất trình sau thời điểm hiệu lực của chính sách mới nên chưa được cơ quan Hải quan chấp thuận. Do quy định không rõ ràng nên khó xác định biện pháp xử lý hợp lý.

Chính vì vậy, để xử lý những bất cập trong thời quan qua, dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 08/2015/NĐ-CP đang xem xét quy định cụ thể thời điểm nộp giấy phép khi thực hiện thủ tục hải quan.

Theo đó, trường hợp hàng hóa XK, NK thuộc diện phải có giấy phép của cơ quan quản lý chuyên ngành thì phải có giấy phép trước khi đăng ký tờ khai hải quan và phải khai đầy đủ thông tin giấy phép trên tờ khai hải quan theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.

Trường hợp căn cứ vào mã số hàng hóa Hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan không xác định được hàng hóa thuộc diện phải có giấy phép thì hệ thống chấp nhận đăng ký tờ khai. Khi kiểm tra hồ sơ cơ quan hải quan đủ cơ sở xác định hàng hóa thuộc diện có giấy phép mà không có giấy phép tại thời điểm đăng kí tờ khai thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Tờ khai hải quan đã đăng ký không có giá trị thực hiện thủ tục hải quan.

(Nguồn: Baohaiquan.vn; Xem chi tiết tại đây)

Bkav