Bảo hiểm Xã hội Điện tử tháng 11/2018

Bấm vào để phóng to

I.  Bộ trưởng Mai Tiến Dũng: Ứng dụng CNTT để chống kẽ hở trong thanh toán bảo hiểm

Quan trọng nhất là tạo minh bạch, rất rõ ràng trong quản lý điều hành và đặc biệt mang tính chất phục vụ với người dân, người đóng bảo hiểm, kiểm soát cơ sở khám chữa bệnh để chống những kẽ hở có thể lợi dụng trong thanh toán bảo hiểm... -  Bộ trưởng Mai Tiến Dũng nói về thành tích trong ứng dụng CNTT của BHXH Việt Nam.

Ngày 18/10, Bộ trưởng, Chủ nhiệm văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng, Tổ trưởng Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ dẫn đầu đoàn kiểm tra Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam về tình hình thực hiện các nhiệm vụ do Chính phủ, Thủ tướng giao.

Nền tảng công nghệ thông tin vững chắc

Trước buổi làm việc, đoàn công tác đã khảo sát tại Trung tâm Vận hành hệ thống công nghệ thông tin (CNTT) của BHXH. Theo báo cáo của BHXH, cơ quan này đã đạt nhiều kết quả rất ấn tượng trong ứng dụng CNTT.

Cụ thể, từ ngày 01/03/2018, toàn bộ văn bản đến BHXH Việt Nam (trừ một số văn bản bắt buộc phải sử dụng văn bản giấy theo quy định) đều được số hóa, xác thực chữ ký số cơ quan trên văn bản và gửi cho các đơn vị liên quan trong phạm vi toàn Ngành.

Từ ngày 01/06/2018 chính thức sử dụng chữ ký số cá nhân (4.206 chứng thư) và chữ ký số cơ quan (994 chứng thư) do Ban Cơ yếu Chính phủ cấp để phục vụ soạn thảo, trao đổi thông tin, xử lý công việc, trình ký, ký và phát hành văn bản điện tử trên Hệ thống quản lý văn bản và điều hành (trừ văn bản mật và một số văn bản cá biệt có quy định riêng của Ngành)...

Về ứng dụng CNTT trong các hoạt động nghiệp vụ, BHXH Việt Nam đã xây dựng được nền tảng vững chắc về hạ tầng công nghệ thông tin, làm cơ sở quan trọng để hiện đại hóa quản lý BHXH, như:

  • Hệ thống cơ sở dữ liệu tập trung toàn Ngành trên cơ sở dữ liệu hộ gia đình, dữ liệu quản lý thu, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT của BHXH các tỉnh, thành phố;
  • Hệ thống cấp mã số BHXH - mã số định danh cá nhân duy nhất để quản lý người tham gia BHXH, BHYT, BHTN thống nhất trên phạm vi toàn quốc;
  • Hệ thống giao dịch điện tử; Hệ thống thông tin giám định BHYT...

Ngành cũng đang triển khai xây dựng trục tích hợp và chia sẻ dữ liệu quốc gia để kết nối với trục tích hợp và chia sẻ dữ liệu của các Bộ, ngành, trong đó đảm bảo việc chia sẻ dữ liệu đúng kiến trúc của Chính phủ điện tử và nâng cao hiệu quả của cơ sở dữ liệu liên thông cấp Quốc gia….

Đặc biệt, hệ thống Thông tin giám định BHYT đã kết nối tới hơn 12.000 (gần 100%) cơ sở khám chữa bệnh (KCB) BHYT từ tuyến xã đến Trung ương trên phạm vi toàn quốc, mang lại hiệu quả lớn trong quản lý KCB, kiểm soát việc sử dụng quỹ BHYT và tạo lập cơ sở dữ liệu quan trọng để đánh giá, điều chỉnh chính sách…

Thủ tướng gửi lời khen ngợi

Phát biểu tại buổi kiểm tra, Bộ trưởng - Tổ trưởng Tổ công tác Mai Tiến Dũng chuyển lời khen ngợi, đánh giá cao của Thủ tướng về 5 vấn đề tới BHXH Việt Nam và Tổng Giám đốc BHXH Nguyễn Thị Minh, trong đó điểm nhấn đầu tiên, đó là BHXH là một trong những đơn vị cải cách sớm nhất, sớm đẩy mạnh ứng dụng CNTT, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm, chia sẻ thông tin, giám sát việc thanh toán, chi trả bảo hiểm.

Hệ thống công nghệ thông tin của BHXH được triển khai từ Trung ương tới 63 tỉnh, thành phố, 709 huyện và tất cả các cơ sở y tế. Đã giảm mạnh thời gian nộp BHXH của các doanh nghiệp từ 335 giờ/năm trước đây xuống còn 45 giờ, giảm từ 115 bộ TTHC xuống còn 28 bộ.

“Quan trọng nhất là tạo minh bạch, rất rõ ràng trong quản lý điều hành và đặc biệt mang tính chất phục vụ với người dân, người đóng bảo hiểm, kiểm soát cơ sở khám chữa bệnh để chống những kẽ hở có thể lợi dụng trong thanh toán bảo hiểm...”, Tổ trưởng Tổ công tác nêu rõ.

Bộ trưởng cũng hoan nghênh việc BHXH đã xây dựng được cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm, trong khi cơ sở dữ liệu về dân cư nói chung chưa có.

“Thủ tướng đánh giá cao và cũng đề nghị báo chí khích lệ kết quả này của BHXH Việt Nam”, Bộ trưởng Mai Tiến Dũng phát biểu.

Bộ trưởng Mai Tiến Dũng cho biết ông “ngưỡng mộ” hệ thống công nghệ thông tin của bảo hiểm, nhưng lưu ý rằng cần hết sức chú ý việc bảo đảm an toàn cơ sở dữ liệu vì đây là vấn đề hết sức quan trọng.

“Xin chuyển lời khen ngợi của Thủ tướng về 5 vấn đề như vậy, đặc biệt là về tư tưởng cải cách, biện pháp cải cách và hiệu quả cải cách, tác động rõ rệt tới kinh tế xã hội đất nước, tạo công khai, minh bạch, rõ ràng giữa các cơ quan nhà nước, cơ quan bảo hiểm và người dân” - Tổ trưởng Tổ công tác nhấn mạnh.

Về tình hình thực hiện các nhiệm vụ do Chính phủ, Thủ tướng giao, Bộ trưởng Mai Tiến Dũng cho biết, tính từ đầu năm 2017 tới nay, BHXH được giao 82 nhiệm vụ, trong đó có một nhiệm vụ đã được dừng có lý do, 57 nhiệm vụ đã hoàn thành, còn 26 nhiệm vụ chưa hoàn thành trong thời hạn cho phép.

Cần sinh lời từ nguồn thu BHXH

Tuy nhiên, Bộ trưởng Mai Tiến Dũng cũng nêu 5 vấn đề để BHXH tiếp tục làm tốt hơn.

  • Thứ nhất: Cần làm tốt hơn Nghị quyết 28 của Trung ương về cải cách chính sách BHXH, đặc biệt là về sắp xếp bộ máy, ứng dụng CNTT, cung cấp hơn nữa nhiều dịch vụ công trực tuyến với chất lượng tốt hơn.
  • Thứ hai: Phải phát triển rộng hơn nữa đối tượng tham gia BHXH vì hiện mới có 27% số người trong độ tuổi lao động tham gia.
  • Thứ ba: Theo Bộ trưởng, báo chí vẫn thường đề cập tới khả năng mất cân đối trong thu chi bảo hiểm y tế. BHXH đã có nhiều giải pháp nhưng cần tích cực hơn nữa trong việc tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng để tránh việc mất cân đối.
  • Thứ tư: BHXH cần làm tốt hơn nữa để kiểm soát, giám sát tự động trong chi bảo hiểm, giảm tiêu cực, gian lận, trục lợi bảo hiểm..
  • Thứ năm: Theo Bộ trưởng Mai Tiến Dũng, có những thông tin cho rằng y tế tư nhân đang bị coi là yếu thế trong ký kết, thương thảo thanh toán bảo hiểm y tế với cơ quan BHXH. Do đó, BHXH cần cố gắng bảo đảm công khai, bình đẳng, minh bạch giữa các cơ sở y tế công lập và tư nhân, giữa các bệnh nhân của các cơ sở này.

Dù đồng tình với những thành tích mà BHXH Việt Nam đạt được, tuy nhiên, phát biểu tại buổi làm việc, TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đặt vấn đề về việc tăng lợi nhuận từ nguồn thu BHXH.

“Nguồn thu của BHXH rất lớn, vậy việc đầu tư như thế nào để sinh lời lớn, báo cáo của BHXH chưa đề cập nội dung này. Có thể gửi ngân hàng để lấy tiền lãi, tốt hơn nữa thì đầu tư vào các công ty với lợi nhuận hàng chục phần trăm mỗi năm” – TS Nguyễn Đình Cung nói.

Chuyên gia Nguyễn Đình Cung cũng chỉ ra, báo cáo của BHXH chưa đề cập chi phí hoạt động hằng năm của BHXH là bao nhiêu, chiếm bao nhiêu phần trăm tổng thu, có giảm được không, đây cũng là một chỉ số đo lường hiệu quả hoạt động. Hơn nữa, cần tiếp tục các giải pháp để người lao động có động lực đóng bảo hiểm, muốn tham gia bảo hiểm chứ không phải họ bắt buộc phải tham gia.

Trong khi đó, đại diện VCCI đề nghị nên có thời gian phù hợp hơn để các doanh nghiệp thích ứng với các chính sách mới về BHXH, đồng thời khi xử phạt xong vi phạm về bảo hiểm thì BHXH nên có cán bộ hướng dẫn doanh nghiệp để doanh nghiệp biết sai ở đâu và không vi phạm lại.

(Nguồn: Vnmedia.vn; Xem chi tiết tại đây)

II.  Sửa đổi, bổ sung một số điều về Bảo hiểm thất nghiệp

Thủ tướng Chính phủ vừa ký ban hành Nghị định số 148/2018/NĐ-CP ngày 24/10/2018, về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động. Trong đó, có sửa đổi, bổ sung một số điều về bảo hiểm (BH) thất nghiệp và tiền lương ngày nghỉ lễ. Cụ thể Nghị định 148/2018/NĐ-CP sửa đổi:

  • Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 theo hướng: Người giao kết hợp đồng lao động được bổ sung thêm một trường hợp người ủy quyền bằng văn bản về việc giao kết hợp đồng lao động bởi “người đại diện theo pháp luật quy định tại điều lệ của doanh nghiệp, hợp tác xã” hoặc “người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức có tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật”.
  • Khoản 6, 7, 8 và 9 của Điều 4 về “Nội dung hợp đồng lao động”, lần lượt như sau: “Chế độ nâng bậc, nâng lương: theo nội dung thỏa thuận của hai bên về điều kiện, thời gian, mức tiền lương sau khi nâng bậc, nâng lương hoặc thỏa thuận thực hiện theo quy chế của người sử dụng lao động, thỏa ước lao động tập thể”; “Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi: theo nội dung thỏa thuận của hai bên hoặc thỏa thuận thực hiện theo nội quy lao động, quy chế của người sử dụng lao động, thỏa ước lao động tập thể và theo quy định của pháp luật”; “Trang bị bảo hộ lao động cho người lao động: theo nội quy lao động, quy chế của người sử dụng lao động, thỏa ước lao động tập thể và theo quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động”; “BHXH, BH thất nghiệp BHYT: Theo quy định của pháp luật về lao động, BHXH, BH thất nghiệp BHYT”.
  • Khoản 3 Điều 14 về “Trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm” như sau: “Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm là tổng thời gian người lao động (NLĐ) đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian NLĐ đã tham gia BH thất nghiệp theo quy định của pháp luật và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm trước đó (nếu có)…”
  • Nghị định cũng đã bổ sung thêm Điều 14a về “Thời hạn thanh toán quyền lợi của người sử dụng lao động và NLĐ khi chấm dứt hợp đồng lao động” sau Điều 14 như sau: “Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, người sử dụng lao động và NLĐ có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên. Trường hợp đặc biệt, thời hạn thanh toán có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động...”

Đồng thời bãi bỏ Khoản 5 Điều 14.

Một trong những nội dung đáng chú ý của Nghị định này là quy định mới về tiền lương làm căn cứ để trả cho NLĐ trong ngày nghỉ hàng năm, ngày nghỉ hàng năm tăng thêm theo thâm niêm, ngày nghỉ lễ, tết và ngày nghỉ việc riêng có hưởng lương.

Nghị định cũng sửa đổi Điều 30 về “Trình tự xử lý kỷ luật lao động”.

Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 15/12/2018.           

(Nguồn: Bhxhhn.com.vn; Xem chi tiết tại đây)

III.  5 trường hợp BHYT được hưởng 100% chi phí khám, chữa bệnh từ ngày 01/12

Đây là một trong những nội dung được quy định tại Nghị định 146/2018/NĐ-CP ngày 17/10/2018 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế (BHYT), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/12/2018.

Theo đó, 5 trường hợp được hưởng 100% chi phí khám, chữa bệnh gồm:

  • Hỗ trợ 100% chi phí khám, chữa bệnh với các đối tượng gồm người có công với cách mạng; cựu chiến binh; người được hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội hàng tháng; người thuộc hộ nghèo, người dân tộc thiểu số ở vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn; thân nhân của người có công với cách mạng; người từ đủ 80 tuổi trở lên đang hưởng trợ cấp tuất hàng tháng.
  • Hỗ trợ 100% chi phí khám, chữa bệnh và không áp dụng giới hạn tỷ lệ thanh toán thuốc, hóa chất, vật tư y tế và dịch vụ kỹ thuật theo quy định của Bộ Y tế đối với người hoạt động cách mạng trước năm 1945; Bà mẹ Việt Nam anh hùng; thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, thương binh loại B, bệnh binh khi điều trị vết thương, bệnh tật tái phát; người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học có tỷ lệ suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên; trẻ em dưới 6 tuổi.
  • Hỗ trợ 100% chi phí khám, chữa bệnh tại tuyến xã.
  • Hỗ trợ 100% chi phí khám, chữa bệnh đối với các trường hợp chi phí cho một lần khám, chữa bệnh thấp hơn 15% lương cơ sở (Mức lương cơ sở hiện nay là 1,39 triệu đồng/ tháng).
  • Hỗ trợ 100% chi phí khám, chữa bệnh khi người bệnh tham gia BHYT 5 năm liên tục trở lên và có số tiền cùng chi trả chi phí khám, chữa bệnh trong năm lớn hơn 6 tháng lương cơ sở, trừ khi tự đi khám, chữa bệnh vượt tuyến.

Đối với các trường hợp khác, mức hưởng BHYT chỉ từ 80 – 95%.

Ngoài ra, ngân sách nhà nước cũng hỗ trợ 100% mức đóng BHYT đối với người thuộc hộ gia đình cận nghèo đang sinh sống tại các huyện nghèo; hỗ trợ tối thiểu 70% mức đóng BHYT đối với người thuộc hộ gia đình cận nghèo và thuộc hộ gia đình nghèo đa chiều; hỗ trợ tối thiểu 30% mức đóng BHYT đối với học sinh, sinh viên; người thuộc hộ gia đình làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp có mức sống trung bình. 

Trường hợp một người thuộc nhiều đối tượng được ngân sách nhà nước hỗ trợ thì được hưởng mức hỗ trợ đóng BHYT theo đối tượng có mức hỗ trợ cao nhất.

UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương căn cứ khả năng ngân sách địa phương và các nguồn hợp pháp khác, có thể hỗ trợ đóng BHYT cao hơn mức hỗ trợ tối thiểu trên.

(Nguồn: Bhxhhn.com.vn; Xem chi tiết tại đây)

IV.  Người lao động được hưởng tiền ốm đau khi nghỉ không lương trên 14 ngày/tháng

Bảo hiểm xã hội (BHXH) TP.HCM hướng dẫn tại Công văn 1904/BHXH-CĐ dựa trên quy định tại Thông tư 59/2015/TT-BLĐTBXH ngày 29/12/2015, có nội dung: người lao động nghỉ không lương trên 14 ngày/tháng vẫn được hưởng tiền ốm đau.

Tại thông tư 59/2015/TT-BLDTBXH ngày 29/12/2015 chỉ quy định không thanh toán trong trường hợp người lao động bị ốm đau mà không phải tai nạn lao động trong thời gian đang: Nghỉ việc riêng, nghỉ phép hàng năm, nghỉ không hưởng lương, nghỉ việc hưởng chế độ thai sản.

Theo đó, với những trường hợp người lao động có ngày nghỉ không lương trên 14 ngày làm việc, có thời gian nghỉ ốm đau và tháng đó không đóng BHXH thì vẫn được thanh toán trợ cấp ốm đau theo quy định.

Liên quan đến vấn đề này, căn cứ Điểm 1.7, Khoản 1, Điều 38 Quyết định 959/QĐ-BHXH ngày 9/9/2015 ngày 14/4/2017 quy định: “Người lao động không làm việc và không hưởng tiền lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng thì không đóng BHXH tháng đó. Thời gian này không được tính để hưởng BHXH; trừ trường hợp nghỉ việc hưởng chế độ thai sản.

Người lao động nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng theo quy định của pháp luật về BHXH thì không phải đóng BHXH; BHYT; BHTN nhưng vẫn được hưởng quyền lợi BHYT”.

Theo đó, người lao động nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng theo quy định của pháp luật về BHXH thì không phải đóng BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ… nhưng vẫn được hưởng quyền lợi BHYT.

Như vậy, người lao động nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau 14 ngày làm việc trở lên trong tháng thì tháng đó không phải đóng BHXH. Mức hưởng chế độ ốm đau tính theo tháng bằng 75% mức tiền lương đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc. Người lao động nghỉ 14 ngày ốm đau, những ngày còn lại vẫn đi làm thì vẫn được trả lương bình thường.

(Nguồn: Bhxhtphcm.gov.vn; Xem chi tiết tại đây)

V.  Ban hành Nghị định quy định về BHXH bắt buộc cho người lao động nước ngoài tại Việt Nam

Thủ tướng Chính phủ vừa ký ban hành Nghị định số 143/2018/NĐ-CP ngày 15/10/2018 quy định chi tiết Luật BHXH và Luật An toàn, vệ sinh lao động về BHXH bắt buộc đối với người lao động (NLĐ) là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam.

Theo đó, đối tượng áp dụng Nghị định gồm: 

  • Thứ nhất: NLĐ là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc khi có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp và có hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ 01 năm trở lên với người sử dụng lao động tại Việt Nam. Tuy nhiên, nếu đối tượng NLĐ này thuộc một trong hai trường hợp sau:
    • Di chuyển trong nội bộ DN theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định số 11/2016/NĐ-CP ngày 03/02/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam;
    • NLĐ đã đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại khoản 1 Điều 187 của Bộ luật Lao động  sẽ không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc theo quy định tại Nghị định này. 
  • Thứ hai: Người sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc bao gồm cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; DN, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân được phép hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao động.
  • Thứ ba: Cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan đến BHXH bắt buộc đối với NLĐ là công dân nước ngoài.

NLĐ và người sử dụng lao động quy định tại Nghị định này có đầy đủ quyền và trách nhiệm theo quy định của Luật BHXH và Luật An toàn, vệ sinh lao động. 

NLĐ thuộc đối tượng được quy định tại Nghị định này thực hiện các chế độ BHXH bắt buộc sau đây: Ốm đau; thai sản; bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; hưu trí và tử tuất. Các chế độ này tính trên thời gian NLĐ tham gia BHXH. 

Việc thực hiện chuyển đổi chế độ BHXH đối với người đang hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng không còn cư trú tại Việt Nam được quy định như sau: Người đang hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng khi không tiếp tục cư trú tại Việt Nam có thể ủy quyền cho người khác nhận lương hưu, trợ cấp BHXH; tường hợp có nguyện vọng thì được giải quyết hưởng trợ cấp một lần.  Mức trợ cấp một lần đối với NLĐ thực hiện theo quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 65 của Luật BHXH.

Về mức đóng và phương thức đóng BHXH, Nghị định quy định, từ ngày 01/01/2022, hàng tháng NLĐ đóng bằng 8% mức tiền lương tháng vào quỹ hưu trí và tử tuất. Nếu, NLĐ không làm việc và không hưởng tiền lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng thì không đóng BHXH tháng đó. Thời gian này không được tính để hưởng BHXH, trừ trường hợp nghỉ việc hưởng chế độ thai sản.

Người sử dụng lao động, hàng tháng đóng trên quỹ tiền lương tháng đóng BHXH của NLĐ như sau:

  • 3% vào quỹ ốm đau và thai sản;
  • 0,5% vào quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
  • 14% vào quỹ hưu trí và tử tuất từ ngày 01/01/2022.

NLĐ mà giao kết hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động và thuộc diện áp dụng BHXH bắt buộc thì NLĐ và người sử dụng lao động chỉ đóng BHXH đối với hợp đồng lao động giao kết đầu tiên. Riêng tham gia vào quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thì người sử dụng lao động phải đóng theo từng hợp đồng lao động đã giao kết.

Nghị định này bắt đầu có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/12/2018. Riêng các chế độ về hưu trí và tử tuất quy định tại Điều 9 và Điều 10 của Nghị định này sẽ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2022.

Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH có trách nhiệm tổ chức triển khai, giám sát thi hành Nghị định này và chủ trì phối hợp với các bộ, ngành tiến hành đề xuất đàm phán, ký kết các Hiệp định song phương, đa phương về BHXH.

Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam có trách nhiệm rà soát, ban hành mẫu, biểu tham gia, giải quyết chế độ BHXH đối với NLĐ nước ngoài bằng tiếng Việt và tiếng Anh.

Bộ trưởng Bộ Y tế có trách nhiệm rà soát, ban hành mẫu cấp giấy ra viện, trích sao hồ sơ bệnh án, giấy chứng nhận nghỉ việc, giấy chứng nhận nghỉ dưỡng thai, giấy chứng nhận không đủ sức khỏe chăm sóc con sau sinh, khám giám định mức suy giảm khả năng lao động để giải quyết chế độ BHXH đối với NLĐ là đối tượng của Nghị định này./.

(Nguồn: Bhxhtphcm.gov.vn; Xem chi tiết tại đây)

VI.  BHXH Việt Nam: Triển khai phần mềm lưu trữ hồ sơ điện tử phiên bản 1.0

Ngày 16/10, BHXH Việt Nam tổ chức Hội nghị trực tuyến công tác lưu trữ năm 2018 và triển khai phần mềm lưu trữ hồ sơ điện tử phiên bản 1.0. 

Tại đây, Giám đốc Trung tâm Lưu trữ BHXH Việt Nam Nguyễn Thị Hà cho biết, tính đến hết tháng 9/2018, tổng số hồ sơ hưởng BHXH đang lưu trữ là 4.636.753 hồ sơ. Hiện nay, việc lưu trữ hồ sơ hưởng BHXH toàn ngành chuyển đổi phương thức truyền thống sang lưu trữ hồ sơ điện tử số hóa, thuận tiện cho việc quản lý, khai thác hồ sơ, góp phần không nhỏ vào công tác cải cách thủ tục hành chính trong việc giải quyết chế độ cho người thụ hưởng BHXH.

Ngày 24/08/2018, BHXH Việt Nam đã ban hành Quyết định 1030 quyết định ban hành phần mềm lưu trữ hồ sơ điện tử phiên bản 1.0 triển khai trong toàn ngành. Phần mềm sẽ cung cấp công cụ quản lý, tìm kiếm toàn bộ hồ sơ đã được số hóa trên giao diện; thao tác nhanh chóng, dễ dàng. Cho phép tìm kiếm hồ sơ theo trường dữ liệu, theo nội dung hồ sơ, xem file hình ảnh rõ nét. Tại các tỉnh, thành phố, đến nay đã hoàn thành và đang tổ chức thực hiện công tác chỉnh lý hồ sơ, tài liệu lưu trữ tại 36 BHXH tỉnh.

Thời gian tới, BHXH Việt Nam tiếp tục tổ chức triển khai lưu trữ hồ sơ điện tử đối với hồ sơ hưởng BHXH, phấn đấu đến năm 2025 thực hiện 100% số hóa hồ sơ, tài liệu lưu trữ có thời hạn bảo quản từ 20 năm trở lên.

Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Đào Việt Ánh nêu rõ, công tác lưu trữ hồ sơ, chỉnh lý hồ sơ phải làm thường xuyên, liên tục, cần phải số hóa hồ sơ điện tử toàn bộ, giúp cho việc quản lý, tra cứu, lưu trữ thông tin khoa học, hiệu quả; phần mềm lưu trữ hồ sơ phải được thiết kế thống nhất, hiệu quả; dữ liệu lưu trữ toàn ngành phải được liên thông, thống nhất giữa các hoạt động nghiệp vụ liên quan.

Cùng với đó, cần thường xuyên tổ chức, đào tạo, tập huấn cho cán bộ làm công tác lưu trữ nâng cao trình độ nghiệp vụ, chuyên môn.

(Nguồn: Laodong.vn; Xem chi tiết tại đây)

VII.  Nhân rộng mô hình hồ sơ sức khỏe điện tử

Nếu như trước đây mỗi lần đi khám bệnh lại phải mua sổ, hoặc lỉnh kỉnh sổ khám bệnh, thẻ BHYT và những giấy tờ liên quan khác thì hiện nay người dân ở 5 thành phố/tỉnh thí điểm …chỉ cần thông báo mã số hồ sơ sức khỏe điện tử ( HSSKĐT) là bác sĩ có thể nắm được ngay tiền sử bệnh tật của người đi khám.

Nhiều tiện ích

Để thực hiện Đề án phát triển mạng lưới y tế cơ sở, Bộ Y tế đã lựa chọn 26 trạm y tế xã thuộc 8 tỉnh bao gồm Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Lào Cai, Yên Bái, Hà Tĩnh, Khánh Hòa, Lâm Đồng và Long An tham gia vào Đề án Y tế cơ sở, thực hiện mô hình điểm trạm y tế xã, phường giai đoạn 2018 – 2020 (viết tắt là Đề án YTCS).

Hà Tĩnh là một trong những địa phương dẫn đầu cả nước về lập HSSKĐT cho người dân, góp phần khám và điều trị bệnh hiệu quả hơn. Dù mới được triển khai từ tháng 2-2018, nhưng đến thời điểm hiện tại, toàn tỉnh Hà Tĩnh đã có hơn 85% người dân được quản lý sức khỏe thông qua mã số HSSKĐT. Mục tiêu mà ngành y tế địa phương đặt ra là phấn đấu đến năm 2020, hơn 90% người dân của tỉnh có mã số HSSKĐT, liên thông dữ liệu giữa tất cả các cơ sở y tế từ cấp cơ sở đến cấp tỉnh.

Theo đánh giá của Sở Y tế tỉnh Hà Tĩnh, việc cập nhật hồ sơ quản lý sức khỏe cá nhân tích hợp với thẻ an sinh xã hội  tạo thuận lợi cho người dân khi đi khám, chữa bệnh, đồng thời các bác sĩ có thể biết được tình trạng sức khỏe, tiền sử bệnh tật, không phải làm lại các xét nghiệm không cần thiết, nhất là trong những trường hợp cấp cứu. Đây là một trong những yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho người dân.

Thực tế cho thấy hiện nay, trong 10 người có thẻ Bảo hiểm y tế (BHYT) thì chỉ có khoảng 4 người sử dụng thẻ để đi khám ở y tế cơ sở. Nhiều người dân chỉ đi khám bệnh khi bệnh trở nặng và không đi kiểm tra sức khỏe khi không có những dấu hiệu bất thường. Vì thế, khi phát hiện bệnh muộn sẽ làm tăng gánh nặng bệnh tật, tăng chi phí cho gia đình, xã hội và làm giảm chất lượng cuộc sống của người dân. Do đó việc lập sổ quản lý sức khỏe, khám định kỳ cho người dân không chỉ đúng về mặt khoa học mà còn góp phần quản lý, chăm sóc sức khỏe người dân từ tuyến y tế cơ sở, qua đó, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh.

Thông tin bệnh nhân bảo mật

Lợi ích việc triển khai hồ sơ khám bệnh điện tử đem lại rất lớn, tuy nhiên vẫn có không ít ý kiến lo ngại về tính bảo mật của bệnh án điện tử. Về vấn đề này, Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin, Bộ Y tế Trần Quý Tường khẳng định: “Việc quản lý hồ sơ khám chữa bệnh điện tử, vấn đề thông tin của người bệnh được bảo mật theo đúng quy định của pháp luật. Đây là một nội dung quan trọng, là yêu cầu kỹ thuật bắt buộc các phần mềm phải đáp ứng.

Cụ thể, theo quy định của luật khám, chữa bệnh, thông tin người bệnh được bảo vệ lưu trữ theo các cấp độ mật của Nhà nước. Khoản 4 Điều 59, Luật Khám bệnh, chữa bệnh cũng đã quy định rõ những đối tượng được tiếp cận hồ sơ bệnh án và thông tin của người bệnh. Vì vậy, chúng tôi khẳng định, bệnh án điện tử cũng phải được bảo mật thông tin của người bệnh theo đúng các quy định trên”.

Thực tế tại Hà Tĩnh, mỗi cá nhân được cấp một mã định danh (ID) y tế duy nhất để xem thông tin về sức khỏe của mình. Phần mềm hồ sơ quản lý sức khỏe người dân bảo đảm liên thông, đồng bộ, kết nối với các phần mềm khác từ các chương trình mục tiêu, các hệ thống thông tin quản lý bệnh truyền nhiễm, không lây nhiễm, hệ thống thông tin tiêm chủng, phần mềm khám, chữa bệnh... 

(Nguồn: Baobaohiemxahoi.vn; Xem chi tiết tại đây)

VIII.  Người lao động được chọn gói bảo hiểm xã hội tự nguyện ngắn hạn

Theo Nghị quyết 125/NQ-CP, sẽ thí điểm thực hiện chính sách về gói bảo hiểm xã hội tự nguyện ngắn hạn linh hoạt để người lao động có nhiều sự lựa chọn tham gia và thụ hưởng; Đến năm 2025, có 55% người đến tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu...

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết 125/NQ-CP ban hành Trương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.

Theo đó, giai đoạn đến năm 2021 phấn đấu đạt:

  • Khoảng 35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chiếm khoảng 1% lực lượng lao động trong độ tuổi;
  • Khoảng 28% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp;
  • Khoảng 45% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội hàng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội;
  • Tỷ lệ giao dịch điện tử đạt 100%;
  • Thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4;
  • Giảm số giờ giao dịch giữa cơ quan bảo hiểm xã hội với doanh nghiệp đạt mức ASEAN 4;
  • Chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người tham gia bảo hiểm xã hội đạt mức 80%.

Giai đoạn đến năm 2025, phấn đấu đạt:

  • Khoảng 45% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chiếm khoảng 2,5% lực lượng lao động trong độ tuổi;
  • Khoảng 35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp;
  • Khoảng 55% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội hàng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội;
  • Chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người tham gia bảo hiểm xã hội đạt mức 85%.

Thí điểm thực hiện gói bảo hiểm xã hội tự nguyện ngắn hạn linh hoạt

Một trong các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu là tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động, việc làm, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và pháp luật có liên quan để thể chế hóa các nội dung cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.

Trong đó, về thí điểm thực hiện gói bảo hiểm xã hội tự nguyện ngắn hạn linh hoạt; ban hành chính sách khi đủ điều kiện, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ thí điểm thực hiện chính sách về gói bảo hiểm xã hội tự nguyện ngắn hạn linh hoạt để người lao động có nhiều sự lựa chọn tham gia và thụ hưởng; theo dõi, tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện thí điểm để báo cáo Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định khi sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng đề án thực hiện điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền lương của người đang làm việc, thay đổi cách thức điều chỉnh lương hưu theo hướng chia sẻ, báo cáo Chính phủ xem xét, quyết định.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, trình Chính phủ xem xét, trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động để thực hiện điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu theo lộ trình từ năm 2021; sửa đổi các quy định về tiền lương để thuận lợi trong việc xác định căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của khu vực doanh nghiệp ít nhất bằng khoảng 70% tổng tiền lương và các khoản thu nhập khác có tính chất lương của người lao động; sửa đổi quy định về quản lý lao động, quan hệ lao động trong bối cảnh tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 để đạt mục tiêu mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội.

Về sửa đổi, bổ sung chính sách bảo hiểm thất nghiệp, chính sách việc làm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật Việc làm, chính sách bảo hiểm thất nghiệp, chính sách việc làm theo hướng chú trọng không chỉ các giải pháp xử lý hậu quả đối với người thất nghiệp thông qua việc chi trả trợ cấp thất nghiệp; đào tạo nghề, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để đáp ứng yêu cầu của công việc mới, giới thiệu việc làm mà cần xây dựng các giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu tình trạng thất nghiệp thông qua hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động duy trì việc làm, bảo đảm quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp và người lao động duy trì việc làm, bảo đảm quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp và người lao động nhằm tăng cường sự liên kết, hỗ trợ giữa các chính sách bảo hiểm xã hội cũng như tính linh hoạt của các chính sách nhằm đạt được mục tiêu mở rộng diện bao phủ.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, tổ chức có liên quan đánh giá kết quả 5 năm thi hành Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Nghị quyết số 93/2015/QH13 ngày 22/6/2015 của Quốc hội về việc thực hiện chính sách hưởng bảo hiểm xã hội một lần đối với người lao động, Luật An toàn, vệ sinh lao động về bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đồng bộ với việc nghiên cứu, đánh giá tác động của các đề xuất chính sách mới làm cơ sở báo cáo Chính phủ trình Quốc hội xem xét sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội theo hướng giảm điều kiện thời gian tham gia bảo hiểm xã hội tối thiểu để hưởng chế độ hưu trí; điều chỉnh cách tính lương hưu theo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững; mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc sang các nhóm đối tượng khác; tăng quyền lợi nếu bảo lưu thời gian tham gia bảo hiểm xã hội để hưởng chế độ hưu trí, giảm quyền lợi nếu hưởng bảo hiểm xã hội một lần; sửa đổi các quy định về mức đóng, căn cứ đóng bảo hiểm xã hội để đạt mục tiêu mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội; điều chỉnh tỷ lệ tích luỹ để đạt tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa phù hợp với thông lệ quốc tế; hoàn thiện các chế tài xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, nhất là đối với các hành vi trốn đóng, nợ đóng, trục lợi bảo hiểm xã hội.

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội

Nhiệm vụ và giải pháp khác là nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội, trong đó, xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả Đề án giao chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội cho các địa phương. Cụ thể, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bảo hiểm xã hội Việt Nam xây dựng Đề án giao chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội cho các địa phương; tổ chức tập huấn, quán triệt để bắt đầu triển khai thực hiện từ năm 2019.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ, Bảo hiểm xã hội Việt Nam xây dựng Đề án đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và chất lượng, hiệu quả hoạt động tổ chức thực hiện bảo hiểm xã hội, trong đó xây dựng bộ tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ và chất lượng cung ứng dịch vụ của cơ quan bảo hiểm xã hội, chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người tham gia và thụ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội.

Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam, các bộ, ngành liên quan xây dựng, trình Chính phủ Đề án nâng cao hiệu quả quản lý, đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội theo hướng đa dạng hoá danh mục, cơ cấu đầu tư bảo đảm nguyên tắc an toàn, bền vững và hiệu quả; ưu tiên đầu tư vào trái phiếu chính phủ, nhất là trái phiếu chính phủ dài hạn; nghiên cứu từng bước mở rộng sang các lĩnh vực có khả năng sinh lời cao, từng bước và có lộ trình đầu tư một phần tiền nhàn rỗi của Quỹ thông qua uỷ thác đầu tư tại thị trường trong nước và quốc tế bảo đảm an toàn, bền vững.

Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ Đề án tăng cường sự kết nối cơ sở dữ liệu về khám bệnh, chữa bệnh; dữ liệu về cấp hồ sơ, giấy tờ làm căn cứ thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, giải quyết, chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội nhằm ngăn chặn các hành vi trục lợi, gian lận tiền bảo hiểm xã hội.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam và các cơ quan có liên quan tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm, nhất là các hành vi trốn đóng, nợ đóng, gian lận, trục lợi tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp.

(Nguồn: Vnmedia.vn; Xem chi tiết tại đây)

Bkav