Bảo hiểm Xã hội Điện tử tháng 12/2018

Bấm vào để phóng to

I.   Bảo hiểm xã hội Việt Nam đạt nhiều kết quả trong cải cách thủ tục hành chính

Để tạo thuận lợi cho cả doanh nghiệp và người lao động, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực BHXH, BHYT, BH thất nghiệp được ngành Bảo hiểm coi là nhiệm vụ trọng tâm.

Rà soát và hiện đại hóa hành chính

Được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, ngành bảo hiểm xã hội (BHXH) đã và đang tập trung tối đa nguồn lực, triển khai đồng loạt các giải pháp nhằm cắt giảm tối đa thời gian, chi phí cho doanh nghiệp khi thực hiện thủ tục hành chính. Nhờ quyết liệt triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, hết quý III/2018 BHXH Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận về giảm thủ tục hành chính (TTHC). Bên cạnh đó, ngành cũng tiếp tục rà soát để sửa đổi, bổ sung các quy trình nghiệp vụ theo hướng tạo điều kiện thuận lợi, giảm bớt các thủ tục không cần thiết cho người hưởng, hướng tới sự hài lòng của người dân, tổ chức và doanh nghiệp.

Theo báo cáo của BHXH Việt Nam, trong 9 tháng đầu năm, ngành BHXH đã thực hiện rà soát các thủ tục hành chính đã ban hành và kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá văn bản của ngành để đánh giá toàn diện hệ thống văn bản chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ, các quy định có liên quan đến thủ tục hành chính, như:

  • Quy định về quản lý thu BHXH, BHYT, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT;
  • Quy định về hồ sơ và quy trình giải quyết hưởng các chế độ BHXH; Quy định về quản lý chi trả các chế độ BHXH;
  • Quy định về tổ chức thực hiện BHYT trong khám chữa bệnh..., từ đó đã kịp thời phát hiện loại bỏ hoặc sửa đổi thủ tục không phù hợp.

Về cải cách các thủ tục hành chính, BHXH Việt Nam đã thực hiện công bố công khai danh mục các thủ tục hành chính mới trên Cổng Thông tin điện tử của BHXH Việt Nam, Trang tin điện tử của BHXH các tỉnh; cập nhật lên cơ sở dữ liệu Quốc gia về thủ tục hành chính, đảm bảo cho các tổ chức, cá nhân có thể dễ dàng tiếp cận, thuận tiện khi cần giải quyết công việc. Đồng thời, tiếp tục vận hành hiệu quả Hệ thống một cửa điện tử tập trung để quản lý, theo dõi trực tuyến toàn bộ quy trình nghiệp vụ, từ việc tiếp nhận hồ sơ đến thụ lý giải quyết, trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính, cảnh báo tình trạng hồ sơ sắp đến hạn, chậm muộn...

Bên cạnh đó, BHXH Việt Nam cũng tiếp tục đẩy mạnh việc quản lý, sử dụng văn bản điện tử trên phần mềm quản lý văn bản và điều hành tại cơ quan BHXH Việt Nam và BHXH tỉnh, huyện; tiếp tục triển khai ứng dụng chữ ký số chuyên dùng cho công chức, viên chức ngành BHXH. Thực hiện trao đổi, chia sẻ dữ liệu giữa BHXH Việt Nam với các bộ, ngành trên trục tích hợp dữ liệu quốc gia; tiếp tục triển khai thực hiện quy chế phối hợp, trao đổi thông tin với các cơ quan quản lý nhà nước về đăng ký thành lập doanh nghiệp, quản lý lao động... để khai thác, sử dụng thông tin dùng chung giữa các bộ, ngành; thực hiện kết nối phần mềm kiểm soát hồ sơ bưu chính với Tổng Công ty Bưu điện Việt Nam để liên thông trả kết quả thủ tục hành chính.

Đẩy mạnh triển khai thực hiện giao dịch điện tử

Đáng chú ý, để tạo thuận lợi nhất cho người dân và doanh nghiệp, BHXH Việt Nam tiếp tục triển khai hệ thống các phần mềm nghiệp vụ; kiện toàn hệ thống chăm sóc khách hàng để hỗ trợ, tư vấn, giải đáp chế độ chính sách BHXH, BHYT, BH thất nghiệp cho người dân và doanh nghiệp; tiếp tục rà soát để sửa đổi, bổ sung các quy trình nghiệp vụ theo hướng tạo điều kiện thuận lợi, giảm bớt các thủ tục không cần thiết cho người hưởng.

Bên cạnh đó, BHXH Việt Nam cũng đẩy mạnh triển khai thực hiện giao dịch điện tử trên tất cả các lĩnh vực:

  • Thu, cấp sổ BHXH; thẻ BHYT;
  • Giải quyết các chế độ BHXH, BHYT, BHTN;
  • Giám định và thanh toán chi phí khám chữa bệnh BHYT.
  • Đến hết tháng 8/2018, số lượng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 hiện có 23 dịch vụ; số hồ sơ điện tử phát sinh trên hệ thống là 104,5 triệu; đã giải quyết là 95,2 triệu hồ sơ; tiếp nhận hồ sơ khám chữa bệnh điện tử đề nghị thanh toán của gần 114,78 triệu lượt người, tỷ lệ liên thông dữ liệu hàng tháng bình quân đạt 98%.

Triển khai, vận hành có hiệu quả Trung tâm Điều hành hệ thống công nghệ thông tin và Trung tâm dịch vụ khách hàng, phục vụ tư vấn, giải đáp cho người dân, người lao động các vấn đề liên quan đến BHXH, BHYT, BH thất nghiệp; hệ thống hội nghị truyền hình theo mô hình kiến trúc chính phủ điện tử.

Duy trì việc tổ chức bộ phận “một cửa” tại BHXH cấp tỉnh, cấp huyện để tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính cho tổ chức, cá nhân và vận hành có hiệu quả Hệ thống “một cửa điện tử tập trung” trên cơ sở phần mềm Tiếp nhận và quản lý hồ sơ để quản lý, theo dõi trực tuyến công tác tiếp nhận hồ sơ, giải quyết và trả kết quả thủ tục hành chính về lĩnh vực BHXH, BHYT, BH thất nghiệp.

(Nguồn: Baohaiquan.vn; Xem chi tiết tại đây)

II.   Doanh nghiệp phải công khai việc đóng BHXH, BHYT

Chính phủ vừa ban hành Nghị định 149/2018/NĐ-CP quy định chi tiết khoản 3 Điều 63 của Bộ luật lao động về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc.

Nghị định này quy định nguyên tắc, nội dung, hình thức thực hiện dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc của doanh nghiệp, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao động (người sử dụng lao động).

Trong đó, nội dung người sử dụng lao động phải công khai gồm:

  • Tình hình thực hiện nhiệm vụ, sản xuất, kinh doanh;
  • Nội quy, quy chế và các văn bản quy định khác của doanh nghiệp liên quan đến nghĩa vụ, quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động;
  • Thỏa ước lao động tập thể doanh nghiệp, thỏa ước lao động tập thể ngành, thỏa ước lao động tập thể khác mà doanh nghiệp tham gia;
  • Nghị quyết Hội nghị người lao động;
  • Việc trích lập, sử dụng quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi và các quỹ do người lao động đóng góp (nếu có);
  • Việc trích nộp kinh phí công đoàn, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp;
  • Tình hình thực hiện thi đua, khen thưởng, kỷ luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.

Người lao động được:

  • Tham gia ý kiến về xây dựng, sửa đổi, bổ sung nội quy, quy chế và các văn bản quy định khác của doanh nghiệp liên quan đến nghĩa vụ, quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động;
  • Xây dựng, sửa đổi, bổ sung thang lương, bảng lương, định mức lao động; đề xuất nội dung thương lượng tập thể;
  • Đề xuất, thực hiện giải pháp tiết kiệm chi phí, nâng cao năng suất lao động, cải thiện điều kiện làm việc, bảo vệ môi trường, phòng chống cháy nổ; Các nội dung khác liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người lao động theo quy định của pháp luật.
  • Quyết định giao kết, thỏa thuận sửa đổi, bổ sung, chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật;
  • Gia nhập hoặc không gia nhập tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở;
  • Tham gia hoặc không tham gia đình công theo đúng quy định của pháp luật;
  • Biểu quyết nội dung thương lượng tập thể đã đạt được theo quy định của pháp luật;
  • Biểu quyết nội dung Nghị quyết Hội nghị người lao động;
  • Các nội dung khác theo quy định của pháp luật.

Nội dung người lao động được kiểm tra, giám sát gồm:

  • Việc thực hiện hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể; việc thực hiện nội quy lao động, các quy chế và các văn bản quy định khác của doanh nghiệp liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động;
  • Việc sử dụng quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, các quỹ do người lao động đóng góp;
  • Việc trích nộp kinh phí công đoàn, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp của người sử dụng lao động;
  • Việc thực hiện thi đua, khen thưởng, kỷ luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động;
  • Việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị người lao động.

Nghị định cũng quy định các hình thức thực hiện dân chủ khác:

  • Hệ thống thông tin nội bộ;
  • Hòm thư góp ý kiến;
  • Kiến nghị, khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật;
  • Các hình thức khác do doanh nghiệp quy định trong Quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc của doanh nghiệp.

Người sử dụng lao động có trách nhiệm ban hành Quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc để đảm bảo thực hiện các quy định tại Nghị định này. Quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc phải có sự tham gia ý kiến của tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở và được phổ biến công khai đến người lao động trước khi thực hiện.

Nghị định có hiệu lực từ 01/01/2019.

(Nguồn: Bhxhtphcm.gov.vn; Xem chi tiết tại đây)

III.   Thẻ BHYT điện tử: Khẳng định nỗ lực phục vụ không ngừng của BHXH Việt Nam

"Chậm nhất đến ngày 01/01/2020, cơ quan BHXH phải có trách nhiệm thực hiện phát hành thẻ BHYT điện tử cho người tham gia BHYT"- đây là một nội dung của Nghị định 146/2018/NĐ-CP quy định và hướng dẫn biện pháp thi hành một số điều của Luật BHYT, vừa được Chính phủ ban hành.

Liên quan tới việc cấp thẻ BHYT điện tử, Văn phòng Chính phủ đã có Công văn số 4173/VPCP-KSTT ngày 8/5/2018, truyền đạt ý kiến của Thủ tướng về việc cấp, quản lý và sử dụng thẻ BHYT điện tử.

Trong đó, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo và giao BHXH Việt Nam chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan liên quan xây dựng dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về cấp, quản lý và sử dụng thẻ BHYT điện tử.

Thủ tướng yêu cầu thẻ BHYT điện tử phải được gắn chíp, với giải pháp công nghệ do Việt Nam làm chủ, bảo đảm kết nối, liên thông, tích hợp an toàn và chia sẻ dữ liệu với các bộ, ngành, địa phương liên quan.

Tại Hội nghị cung cấp thông tin định kỳ về BHXH, BHYT, BH thất nghiệp tháng 10/2018, Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Đào Việt Ánh cho biết, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo giao cho BHXH VN chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan liên quan xây dựng dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về cấp, quản lý và sử dụng thẻ BHYT điện tử. Thủ tướng yêu cầu thẻ BHYT phải có gắn chíp với giải pháp công nghệ do Việt Nam làm chủ, bảo đảm kết nối, liên thông, tích hợp an toàn và chia sẻ dữ liệu với các bộ, ngành, địa phương liên quan.

BHXH Việt Nam đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu cấp thẻ BHYT điện tử như kế hoạch đề ra, như:

  • Xây dựng dự thảo Quyết định phê duyệt Mẫu thẻ BHYT và phương án cấp, quản lý và sử dụng thẻ BHYT điện tử;
  • Xây dựng phương án để xây dựng mục tiêu, lộ trình thực hiện, quy định về giải pháp công nghệ cho thẻ BHYT điện tử...
  • Thành lập các ban, chương trình và xin ý kiến các bộ, hiện tại đang xin ý kiến của 63 tỉnh thành. Sau khi hoàn tất các thủ tục, BHXH Việt Nam sẽ trình lãnh đạo ngành, trình Thủ tướng xin được phê duyệt quyết định.

Phó Tổng Giám đốc Đào Việt Ánh cũng cho biết thêm, Nghị định 146/2018/NĐ-CP quy định và hướng dẫn biện pháp thi hành một số điều vừa được Chính phủ ban hành giao BHXH Việt Nam chủ trì xây dựng thẻ BHYT điện tử. Trong 2 năm vừa qua, BHXH Việt Nam đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động nghiệp vụ và xây dựng thẻ BHYT điện tử sẽ là một bước đột phá của ngành. Thẻ BHYT điện tử ra đời sẽ mang lại nhiều hơn sự thuận tiện cho người dân. Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam nhấn mạnh, đến 01/01/2020 sẽ thực hiện đầy đủ các nội dung liên quan đến thẻ BHYT điện tử và chắc chắn sẽ phát hành thẻ BHYT điện tử đến với người dân theo đúng quy định.

Mới đây, trong buổi làm việc của Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ với BHXH Việt Nam, Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng, Tổ trưởng Tổ công tác nhấn mạnh, BHXH là cột trụ rất quan trọng của quốc gia về an sinh xã hội, được Thủ tướng Chính phủ rất quan tâm. Bộ trưởng Mai Tiến Dũng chuyển lời khen ngợi, đánh giá cao của Thủ tướng về 05 vấn đề tới BHXH Việt Nam và Tổng Giám đốc Nguyễn Thị Minh.

Trong đó, BHXH Việt Nam là một trong những đơn vị cải cách sớm nhất, sớm đẩy mạnh ứng dụng CNTT, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về BHXH, chia sẻ thông tin, giám sát việc thanh toán, chi trả BHXH, BHYT. Hệ thống CNTT của BHXH được triển khai từ Trung ương tới 63 tỉnh, thành phố, 709 huyện và tất cả các cơ sở y tế. Đã giảm mạnh thời gian nộp BHXH của các doanh nghiệp từ 335 giờ/năm trước đây xuống còn 45 giờ, giảm từ 115 bộ TTHC xuống còn 28 bộ. Ngành BHXH đã xây dựng được cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm, trong khi cơ sở dữ liệu về dân cư nói chung chưa có. “Thủ tướng đánh giá cao và cũng đề nghị báo chí khích lệ kết quả này của BHXH Việt Nam” - Bộ trưởng Mai Tiến Dũng nói.

Theo Bộ trưởng Mai Tiến Dũng, quan trọng nhất là ngành BHXH đã tạo minh bạch, rõ ràng trong quản lý điều hành và đặc biệt mang tính chất phục vụ với người dân, người tham gia các chính sách BHXH, kiểm soát cơ sở khám chữa bệnh để chống những kẽ hở có thể lợi dụng trong thanh toán chi phí KCB BHYT.

 “Xin chuyển lời khen ngợi của Thủ tướng về 05 vấn đề như vậy, đặc biệt là đánh giá cao về tư tưởng cải cách, biện pháp cải cách và hiệu quả cải cách, tác động rõ rệt tới kinh tế xã hội đất nước, tạo công khai, minh bạch, rõ ràng giữa các cơ quan nhà nước, cơ quan BHXH và người dân được hưởng các chế độ. Ngay cách chi trả hiện nay của Ngành BHXH cũng rất tốt, đến tận các điểm văn hóa xã. Trước đây, các cụ đi năm ba cây số mới nhận được tiền lương, nay được nhận rất nhanh, rất nhanh, rất tiện lợi” – Bộ trưởng Mai Tiến Dũng nhấn mạnh.

Theo xếp hạng sẵn sàng về ứng dụng CNTT của Bộ Thông tin và Truyền thông, ngành BHXH đang đứng thứ 2, riêng hạ tầng kỹ thuật đứng thứ nhất. Theo đánh giá của WB trong bảng xếp hạng môi trường kinh doanh của Việt Nam, BHXH là lĩnh vực thăng hạng nhiều nhất, tới 81 bậc, đạt vị trí 86/190 nền kinh tế trong năm 2018.

Hiện, cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm đang quản lý thông tin của hơn 94 triệu người dân với 6 thông tin cơ bản, trong đó có 82 triệu hồ sơ (thẻ) tham gia BHYT.

Đặc biệt, BHXH Việt Nam cũng sẵn sàng chia sẻ dữ liệu này với các cơ quan khác, tiến tới tích hợp, đồng bộ hóa với cơ sở dữ liệu dân cư của quốc gia, riêng với ngành thuế, hai bên đang trao đổi rất thường xuyên.

Hiện nay, BHXH Việt Nam đang triển khai đồng bộ nhiều biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu cấp thẻ BHYT điện tử theo kế hoạch đề ra. Cụ thể như:

  • Xây dựng dự thảo Quyết định phê duyệt mẫu thẻ BHYT và phương án cấp, quản lý và sử dụng thẻ BHYT điện tử;
  • Xây dựng phương án để xây dựng mục tiêu, lộ trình thực hiện, quy định về giải pháp công nghệ cho thẻ BHYT điện tử...

BHXH Việt Nam cũng tổ chức khảo sát, thí điểm tại một số tỉnh, thành phố lớn; lên phương án trang bị cơ sở hạ tầng nhằm bảo đảm kết nối, chia sẻ cơ sở dữ liệu BHYT liên thông với cơ sở dữ liệu của các bộ, ngành, địa phương liên quan.

Năm 2017, cả nước có 13,9 triệu người tham gia BHXH, 79,9 triệu người tham gia BHYT, 11,8 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Tính đến hết tháng 10/2018, toàn quốc có 82,33 triệu người tham gia BHYT, tỷ lệ bao phủ BHYT đạt 87,62% dân số.

Với thẻ điện tử, hơn 82 triệu người tham gia BHYT và còn hơn thế nữa trong những năm tới khi đi khám bệnh, trong trường hợp thẻ chưa đến tay người dân nhưng trong hệ thống đã có thông tin thì chủ thẻ vẫn được giải quyết bình thường. Các cơ sở khám chữa bệnh chỉ cần nhập mã thẻ, họ tên, ngày tháng năm sinh chủ thẻ, hệ thống sẽ trả kết quả là thẻ có hợp lệ hay không. Người dân cũng có thể tra cứu quyền lợi của chủ thẻ, thậm chí tra cứu những lần khám chữa bệnh nếu đã khám chữa bệnh trên Cổng thông tin điện tử BHXH Việt Nam.   

(Nguồn: Baohiemxahoi.gov.vn; Xem chi tiết tại đây)

IV.   Thanh toán BHXH chỉ còn 1 giờ

Trước kia để truy xuất dữ liệu phục vụ công tác thanh toán chế độ phải mất 5 - 7 ngày, thì hiện giờ nhờ ứng dụng lưu trữ điện tử, thời gian rút ngắn xuống một vài giờ, thậm chí tính bằng phút.

Khó khăn tìm kiếm khi lưu trữ thủ công

Theo báo cáo của Ban Thực hiện chính sách BHXH (BHXH Việt Nam), hiện một số địa phương có tình trạng trường hợp đang hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng (được giải quyết hưởng BHXH trước và sau ngày 01/01/1995), nhưng thiếu hoặc không có hồ sơ lưu trữ, dẫn đến việc khi di chuyển tỉnh hoặc khi đối tượng chết thì không có hồ sơ để thực hiện. Trong đó, chỉ có 19 tỉnh lưu trữ đầy đủ hồ sơ, khớp với danh sách chi trả; 41 tỉnh hồ sơ thiếu, hồ sơ không đầy đủ (thiếu quyết định nghỉ việc của chủ sử dụng lao động, bản khai quá trình công tác, biên bản giám định y khoa) hoặc hồ sơ rách nát, photo.

Theo bà Nguyễn Thị Hà, Giám đốc Trung tâm Lưu trữ, BHXH Việt Nam, với lưu trữ thủ công việc truy xuất hồ sơ thường được thực hiện theo quy trình: Nhận công văn đề nghị - truy xuất số hồ sơ trên máy - vào kho tìm hồ sơ - sao hồ sơ - gửi đi hồ sơ sao - nhập lại kho... Để thực hiện 1 nhiệm vụ truy xuất mất trung bình khoảng 7 ngày. Đó còn chưa kể đến việc thất lạc hồ sơ, diện tích kho chứa hồ sơ và nhiều yếu tố khác bởi đặc thù của ngành BHXH là thời gian đóng - hưởng BHXH rất dài. Nếu chỉ sơ suất thất lạc 1 giấy tờ trong hồ sơ cũng đã gây khó cho cả hai phía BHXH và người tham gia BHXH.

Cũng chính vì lẽ đó, ngày 24/8/2018, BHXH Việt Nam đã ban hành Quyết định 1030 quyết định ban hành phần mềm “Lưu trữ hồ sơ điện tử phiên bản 1.0” triển khai trong toàn ngành. Phần mềm sẽ cung cấp công cụ quản lý, tìm kiếm toàn bộ hồ sơ đã được số hóa trên giao diện; thao tác nhanh chóng, dễ dàng. Cho phép tìm kiếm hồ sơ theo trường dữ liệu, theo nội dung hồ sơ, xem file hình ảnh rõ nét. Tại các tỉnh, thành phố, đến nay đã hoàn thành và đang tổ chức thực hiện công tác chỉnh lý hồ sơ, tài liệu lưu trữ tại 36 BHXH tỉnh.

Năm 2025, 100% ứng dụng lưu trữ hồ sơ BHXH điện tử

Về công tác lưu trữ năm 2018, bà Nguyễn Thị Hà cho biết, tính đến hết tháng 9/2018, tổng số hồ sơ hưởng BHXH đang lưu trữ là 4.636.753 hồ sơ, tương đương 2.864 mét giá hồ sơ. Toàn bộ số hồ sơ hưởng BHXH đến tháng 5/2017 là 4.338.019 hồ sơ đã thực hiện số hóa, lưu trữ hồ sơ điện tử và dữ liệu điện tử, lưu trữ tại Trung tâm dữ liệu của ngành. Số hồ sơ hưởng BHXH từ tháng 6/2017 đến tháng 9/2018 là 298.734 hồ sơ đã được lưu trữ hồ sơ điện tử và đang lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ, chuẩn bị thực hiện việc chuyển lên lưu trữ tại Trung tâm dữ liệu của ngành.

Cũng theo Trung tâm Lưu trữ, hồ sơ hưởng BHXH hàng tháng lưu trữ điện tử đã được chia sẻ cho BHXH các địa phương cũng như Ban Thực hiện chính sách BHXH để khai thác phục vụ cho việc giải quyết chế độ chính sách, tạo thuận tiện cho quản lý, khai thác hồ sơ, góp phần cải cách thủ tục hành chính trong giải quyết chế độ cho người thụ hưởng BHXH. Cán bộ lưu trữ thay vì phải trực tiếp vào kho rút hồ sơ, nay chỉ cần truy cập vào phần mềm tìm kiếm và in hồ sơ cần khai thác, nên đã giảm thời gian khai thác hồ sơ đang tìm kiếm bằng giờ, ngày sang tính bằng phút.

Bên cạnh đó, đảm bảo an toàn dữ liệu, lưu trữ song song một kho hồ sơ giấy và một kho hồ sơ điện tử đặc biệt trong điều kiện thời tiết, thiên tai và hỏa hoạn diễn biến phức tạp.

Ông Đào Việt Ánh, Phó tổng giám đốc BHXH Việt Nam cho biết: “Trong bối cảnh xây dựng, vận hành Chính phủ điện tử và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, việc quản lý tài liệu lưu trữ hồ sơ điện tử là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành BHXH. Đến nay, lưu trữ hồ sơ hưởng BHXH toàn ngành đã được chuyển đổi toàn bộ từ phương thức truyền thống sang lưu trữ hồ sơ điện tử số hóa, tiếp cận kịp thời cuộc cách mạnh công nghiệp 4.0”.

Đến thời điểm hiện tại đã hoàn thành và đang tổ chức thực hiện công tác chỉnh lý hồ sơ, tài liệu lưu trữ tại 36 BHXH tỉnh. Trước khi thực hiện chỉnh lý hồ sơ, không xác định được số lượng hồ sơ trong kho cũng như phân định thời hạn bảo quản. Sau khi chỉnh lý, về cơ bản, hồ sơ, tài liệu lưu trữ tồn đọng hơn 20 năm đã được phân loại, xác định giá trị, thống kê, lập cơ sở dữ liệu quản lý, phục vụ tra tìm và khai thác sử dụng kịp thời và nhanh chóng.

(Nguồn: Baogiaothong.vn; Xem chi tiết tại đây)

V.   Điều chỉnh lương hưu đối với lao động nữ bắt đầu hưởng lương hưu giai đoạn 2018 - 2021

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc vừa ký ban hành Nghị định số 153/2018/NĐ-CP quy định chính sách điều chỉnh lương hưu đối với lao động nữ bắt đầu hưởng lương hưu trong giai đoạn từ năm 2018 đến năm 2021 và có thời gian đóng BHXH từ đủ 20 năm đến 29 năm 6 tháng.

Theo đó, Nghị định số 153/2018/NĐ-CP quy định chính sách điều chỉnh lương hưu đối với lao động nữ bắt đầu hưởng lương hưu từ ngày 01/01/2018 đến ngày 31/12/2021, có thời gian đóng BHXH từ đủ 20 năm đến 29 năm 6 tháng, bị tác động bất lợi hơn so với lao động nam do thay đổi cách tính lương hưu theo quy định của Luật BHXH năm 2014 so với Luật BHXH năm 2006. Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 24/12/2018.

Về mức điều chỉnh lương hưu, Nghị định 153 nêu rõ, lao động nữ quy định tại Điều 2 của Nghị định tùy thuộc vào thời gian đã đóng BHXH và thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu, mức lương hưu hoặc điều chỉnh bằng mức lương hưu tính theo quy định tại Khoản 2, Điều 56 hoặc Khoản 2, Điều 74 Luật BHXH năm 2014, cộng với mức điều chỉnh theo quy định tại Khoản 2 Điều 2 của Nghị định. Đồng thời, mức điều chỉnh được tính bằng mức lương hưu tính theo quy định tại Khoản 2, Điều 56 hoặc Khoản 2, Điều 74 Luật BHXH năm 2014 tại thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu, nhân với tỉ lệ điều chỉnh tương ứng với thời gian đã đóng BHXH và thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu.

Cụ thể:

  • Thời gian đóng BHXH là 20 năm, thì tỉ lệ điều chỉnh tương ứng với thời gian đóng BHXH và thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu lần lượt được quy định như sau: Năm 2018 là 7,27%; năm 2019 là 5,45%; năm 2020 là 3,64%; năm 2021 là 1,82%.
  • Thời gian đóng BHXH là 20 năm 1 tháng đến 20 năm 6 tháng, thì tỉ lệ điều chỉnh tương ứng với thời gian đóng BHXH và thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu lần lượt được quy định như sau: Năm 2018 là 7,86%; năm 2019 là 5,89%; năm 2020 là 3,93%; năm 2021 là 1,96%.
  • Thời gian đóng BHXH là 20 năm 7 tháng đến 21 năm, thì tỉ lệ điều chỉnh tương ứng với thời gian đóng BHXH và thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu lần lượt được quy định như sau: Năm 2018 là 8,42%; năm 2019 là 6,32%; năm 2020 là 4,21%; năm 2021 là 2,11%.
  • Thời gian đóng BHXH là 21 năm 1 tháng đến 21 năm 6 tháng, thì tỉ lệ điều chỉnh tương ứng với thời gian đóng BHXH và thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu lần lượt được quy định như sau: Năm 2018 là 8,97%; năm 2019 là 6,72%; năm 2020 là 4,48%; năm 2021 là 2,24%.
  • Thời gian đóng BHXH là 21 năm 7 tháng đến 22 năm, thì tỉ lệ điều chỉnh tương ứng với thời gian đóng BHXH và thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu lần lượt được quy định như sau: Năm 2018 là 9,49%; năm 2019 là 7,12%; năm 2020 là 4,75%; năm 2021 là 2,37%.
  • Thời gian đóng BHXH là 22 năm 1 tháng đến 22 năm 6 tháng, thì tỉ lệ điều chỉnh tương ứng với thời gian đóng BHXH và thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu lần lượt được quy định như sau: Năm 2018 là 10%; năm 2019 là 7,5%; năm 2020 là 5%; năm 2021 là 2,5%.
  • Thời gian đóng BHXH là 22 năm 7 tháng đến 23 năm, thì tỉ lệ điều chỉnh tương ứng với thời gian đóng BHXH và thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu lần lượt được quy định như sau: Năm 2018 là 10,49%; năm 2019 là 7,87%; năm 2020 là 5,25%; năm 2021 là 2,62%.
  • Thời gian đóng BHXH là 23 năm 1 tháng đến 23 năm 6 tháng, thì tỉ lệ điều chỉnh tương ứng với thời gian đóng BHXH và thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu lần lượt được quy định như sau: Năm 2018 là 10,97%; năm 2019 là 8,23%; năm 2020 là 5,48%; năm 2021 là 2,74%.
  • Thời gian đóng BHXH là 23 năm 7 tháng đến 24 năm, thì tỉ lệ điều chỉnh tương ứng với thời gian đóng BHXH và thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu lần lượt được quy định như sau: Năm 2018 là 11,43%; năm 2019 là 8,57%; năm 2020 là 5,71%; năm 2021 là 2,86%.
  • Thời gian đóng BHXH là 24 năm 1 tháng đến 24 năm 6 tháng, thì tỉ lệ điều chỉnh tương ứng với thời gian đóng BHXH và thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu lần lượt được quy định như sau: Năm 2018 là 11,88%; năm 2019 là 8,91%; năm 2020 là 5,94%; năm 2021 là 2,97%.
  • Thời gian đóng BHXH là 24 năm 7 tháng đến 25 năm, thì tỉ lệ điều chỉnh tương ứng với thời gian đóng BHXH và thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu lần lượt được quy định như sau: Năm 2018 là 12,31%; năm 2019 là 9,23%; năm 2020 là 6,15%; năm 2021 là 3,08%.
  • Thời gian đóng BHXH là 25 năm 1 tháng đến 25 năm 6 tháng, thì tỉ lệ điều chỉnh tương ứng với thời gian đóng BHXH và thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu lần lượt được quy định như sau: Năm 2018 là 10,91%; năm 2019 là 8,18%; năm 2020 là 5,45%; năm 2021 là 2,73%.
  • Thời gian đóng BHXH là 25 năm 7 tháng đến 26 năm, thì tỉ lệ điều chỉnh tương ứng với thời gian đóng BHXH và thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu lần lượt được quy định như sau: Năm 2018 là 9,55%; năm 2019 là 7,16%; năm 2020 là 4,78%; năm 2021 là 2,39%.
  • Thời gian đóng BHXH là 26 năm 1 tháng đến 26 năm 6 tháng, thì tỉ lệ điều chỉnh tương ứng với thời gian đóng BHXH và thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu lần lượt được quy định như sau: Năm 2018 là 8,24%; năm 2019 là 6,18%; năm 2020 là 4,12%; năm 2021 là 2,06%.
  • Thời gian đóng BHXH là 26 năm 7 tháng đến 27 năm, thì tỉ lệ điều chỉnh tương ứng với thời gian đóng BHXH và thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu lần lượt được quy định như sau: Năm 2018 là 6,96%; năm 2019 là 5,22%; năm 2020 là 3,48%; năm 2021 là 1,74%.
  • Thời gian đóng BHXH là 27 năm 1 tháng đến 27 năm 6 tháng, thì tỉ lệ điều chỉnh tương ứng với thời gian đóng BHXH và thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu lần lượt được quy định như sau: Năm 2018 là 5,71%; năm 2019 là 4,29%; năm 2020 là 2,86%; năm 2021 là 1,43%.
  • Thời gian đóng BHXH là 27 năm 7 tháng đến 28 năm, thì tỉ lệ điều chỉnh tương ứng với thời gian đóng BHXH và thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu lần lượt được quy định như sau: Năm 2018 là 4,51%; năm 2019 là 3,38%; năm 2020 là 2,25%; năm 2021 là 1,13%.
  • Thời gian đóng BHXH là 28 năm 1 tháng đến 28 năm 6 tháng, thì tỉ lệ điều chỉnh tương ứng với thời gian đóng BHXH và thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu lần lượt được quy định như sau: Năm 2018 là 3,33%; năm 2019 là 2,5%; năm 2020 là 1,67%; năm 2021 là 0,83%.
  • Thời gian đóng BHXH là 28 năm 7 tháng đến 29 năm, thì tỉ lệ điều chỉnh tương ứng với thời gian đóng BHXH và thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu lần lượt được quy định như sau: Năm 2018 là 2,19%; năm 2019 là 1,64%; năm 2020 là 1,1%; năm 2021 là 0,55%.
  • Thời gian đóng BHXH là 29 năm 1 tháng đến 29 năm 6 tháng, thì tỉ lệ điều chỉnh tương ứng với thời gian đóng BHXH và thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu lần lượt được quy định như sau: Năm 2018 là 1,08%; năm 2019 là 0,81%; năm 2020 là 0,54%; năm 2021 là 0,27%.

Bên cạnh đó, mức lương hưu sau điều chỉnh theo quy định tại Khoản 1 Điều này là căn cứ để tính điều chỉnh ở những lần điều chỉnh lương hưu theo quy định tại Điều 57 Luật BHXH. Đối với lao động nữ quy định tại Điều 2 Nghị định này bắt đầu hưởng lương hưu trong giai đoạn từ ngày 1/1/2018 đến ngày 30/6/2018, thì thực hiện điều chỉnh lương hưu theo quy định tại Khoản 1 Điều này trước, sau đó được điều chỉnh theo quy định tại Nghị định số 88/2018/NĐ-CP ngày 15/6/2018 của Chính phủ về điều chỉnh lương hưu và trợ cấp BHXH hằng tháng.

Đối với lao động nữ bắt đầu hưởng lương hưu trong giai đoạn từ ngày 01/01/2018 đến trước ngày nhận lương hưu mới theo quy định tại Nghị định này, sẽ được truy lĩnh phần lương hưu chênh lệch tăng thêm giữa mức lương hưu trước và sau khi thực hiện điều chỉnh theo quy định.

Nghị định cũng quy định rõ, BHXH Việt Nam có trách nhiệm chỉ đạo BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, BHXH Bộ Quốc phòng, BHXH Bộ Công an thực hiện điều chỉnh lương hưu theo quy định. Đối với BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết hưởng lương hưu cho đối tượng từ ngày 01/01/2018 đến trước ngày Nghị định có hiệu lực thi hành. BHXH Bộ Quốc phòng, BHXH Bộ Công an giải quyết điều chỉnh lương hưu cho đối tượng thuộc thẩm quyền quản lý bắt đầu từ ngày 24/12/2018.

Hàng năm, BHXH Việt Nam thực hiện báo cáo Thủ tướng Chính phủ và Bộ LĐ-TB&XH về kết quả thực hiện chính sách quy định tại Nghị định này.

(Nguồn: Baobaohiemxahoi.vn; Xem chi tiết tại đây)

VI.   Linh hoạt triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 125/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 28 - NQ/TW của Hội nghị Trung ương 7 Khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH). Theo đó đến năm 2025, phấn đấu đạt khoảng 45% lực lượng lao động tham gia BHXH, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện chiếm khoảng 2,5%.

Phát triển đối tượng tham gia

Theo BHXH Việt Nam, để đạt được các chỉ tiêu đề ra, Chính phủ đã đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu như tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về chính sách BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp, tạo sự đồng thuận trong cải cách chính sách BHXH.

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động, việc làm, BHXH, bảo hiểm thất nghiệp và pháp luật có liên quan để thể chế hóa các nội dung cải cách chính sách BHXH. Trong đó:

  • Thí điểm thực hiện gói BHXH tự nguyện ngắn hạn linh hoạt;
  • Ban hành chính sách khi đủ điều kiện, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ thí điểm thực hiện chính sách về gói BHXH tự nguyện ngắn hạn linh hoạt để người lao động có nhiều sự lựa chọn tham gia và thụ hưởng;
  • Theo dõi, tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện thí điểm để báo cáo Chính phủ trình QH xem xét, quyết định khi sửa đổi Luật BHXH.

Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cũng chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng đề án thực hiện điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền lương của người đang làm việc, thay đổi cách thức điều chỉnh lương hưu theo hướng chia sẻ, báo cáo Chính phủ xem xét, quyết định.

Đồng thời, nghiên cứu, trình Chính phủ xem xét, trình QH sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động để thực hiện điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu theo lộ trình từ năm 2021. Sửa đổi các quy định về tiền lương để thuận lợi trong việc xác định căn cứ đóng BHXH của khu vực doanh nghiệp ít nhất bằng khoảng 70% tổng tiền lương và các khoản thu nhập khác có tính chất lương của người lao động.

Sửa đổi quy định về quản lý lao động, quan hệ lao động trong bối cảnh tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 để đạt mục tiêu mở rộng diện bao phủ BHXH.

Mở rộng chính sách

Về sửa đổi, bổ sung chính sách bảo hiểm thất nghiệp, chính sách việc làm, Nghị định của Chính phủ cũng nêu rõ, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật Việc làm, chính sách bảo hiểm thất nghiệp, chính sách việc làm theo hướng chú trọng không chỉ các giải pháp xử lý hậu quả đối với người thất nghiệp thông qua việc chi trả trợ cấp thất nghiệp; đào tạo nghề, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để đáp ứng yêu cầu của công việc mới, giới thiệu việc làm mà cần xây dựng các giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu tình trạng thất nghiệp thông qua hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động duy trì việc làm, bảo đảm quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp và người lao động, nhằm tăng cường sự liên kết, hỗ trợ giữa các chính sách BHXH cũng như tính linh hoạt của các chính sách nhằm đạt được mục tiêu mở rộng diện bao phủ.

  • Mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc sang các nhóm đối tượng khác;
  • Tăng quyền lợi nếu bảo lưu thời gian tham gia BHXH để hưởng chế độ hưu trí, giảm quyền lợi nếu hưởng BHXH một lần;
  • Sửa đổi các quy định về mức đóng, căn cứ đóng BHXH để đạt mục tiêu mở rộng diện bao phủ BHXH;
  • Điều chỉnh tỷ lệ tích luỹ để đạt tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa phù hợp với thông lệ quốc tế;
  • Hoàn thiện các chế tài xử lý vi phạm pháp luật về BHXH, nhất là đối với các hành vi trốn đóng, nợ đóng, trục lợi.

Đồng thời giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với BHXH Việt Nam, các bộ, ngành liên quan xây dựng, trình Chính phủ Đề án nâng cao hiệu quả quản lý, đầu tư quỹ BHXH theo hướng đa dạng hóa danh mục, cơ cấu đầu tư bảo đảm nguyên tắc an toàn, bền vững và hiệu quả; ưu tiên đầu tư vào trái phiếu chính phủ, nhất là trái phiếu chính phủ dài hạn; nghiên cứu từng bước mở rộng sang các lĩnh vực có khả năng sinh lời cao, từng bước và có lộ trình đầu tư một phần tiền nhàn rỗi của quỹ thông qua ủy thác đầu tư tại thị trường trong nước và quốc tế bảo đảm an toàn, bền vững.

(Nguồn: Bhxhtphcm.gov.vn; Xem chi tiết tại đây)

VII.   Chính sách BH thất nghiệp: Những bất cập cần sớm giải quyết

Hiện nay, chính sách BH thất nghiệp vẫn còn một số điểm bất cập. Tuy nhiên, những điểm này lại chưa được các cơ quan chức năng xem xét xử lý một cách thấu đáo.

Sai một ly, “đi” luôn trợ cấp

Chị Nguyễn Thị P.D trước đây làm việc tại một đơn vị thuộc Bưu điện TP.HCM. Vào tháng 6/2018, vì lý do gia đình nên chị D. xin nghỉ việc. Sau khi xong thủ tục chấm dứt HĐLĐ và chốt sổ BHXH, chị D. đến Trung tâm đăng ký BH thất nghiệp quận 6 để làm thủ tục hưởng trợ cấp thất nghiệp. Sau khi rà soát hồ sơ, nhân viên tại trung tâm này cho biết, chị D. không đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp, do không đóng đủ BH thất nghiệp đến thời điểm nghỉ việc.

Phản ánh với phóng viên Báo BHXH, chị D. một mực cho rằng, mình đã đóng đầy đủ BHXH, BH thất nghiệp trước khi nghỉ việc. Theo thông tin trong sổ BHXH (đã được BHXH TP.HCM chốt), chị D. đã đóng BH thất nghiệp và thời gian chưa hưởng là 8 năm, đóng BHXH được 14 năm 4 tháng. “Khi nghỉ việc, đơn vị SDLĐ cũng ra quyết định đầy đủ, kịp thời. Vậy mà giờ lại không được hưởng trợ cấp là vô lý…”- chị D. bức xúc cho biết.

Qua rà soát hồ sơ và trao đổi kỹ, chúng tôi được biết, chị D. làm việc cho đến hết tháng 6/2018, nhưng do thời điểm tháng 6, chị xin nghỉ việc hơn 10 ngày lo việc gia đình nên phía Bưu điện không tính đóng BH thất nghiệp cho chị tháng này. Quyết định chấm dứt HĐLĐ với chị D. cũng đề ngày 29/5 và chỉ tính đóng BH thất nghiệp đến hết tháng 5/2018. Như vậy, dù đóng BH thất nghiệp đến 8 năm và đang thất nghiệp nhưng chỉ vì một chút rắc rối liên quan đến “1 tháng” cuối cùng mà chị D. có nguy cơ không được hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Bà Phạm Thị Hồng Huệ - Trưởng phòng BH thất nghiệp (Trung tâm GTVL TP.HCM) cho rằng, qua rà soát hồ sơ và chiếu theo quy định tại Luật Việc làm và các văn bản hướng dẫn là Nghị định 28/2015/NĐ-CP, Thông tư 28/2015/TT-BLĐTBXH, trường hợp của chị D. không đóng đủ BH thất nghiệp đến “tháng liền kề” trước khi nghỉ việc nên không đủ điều kiện hưởng trợ cấp.

Qua tìm hiểu tại các Trung tâm đăng ký thất nghiệp ở TP.HCM, chúng tôi gặp rất nhiều trường hợp thất vọng trở về vì không đủ điều kiện hưởng trợ cấp. Người thì thiếu 1 tháng cuối cùng trước khi nghỉ việc, người đóng thiếu vài ba tháng vì công ty khó khăn; thậm chí có người bị đóng thiếu cả năm vì công ty giải thể, chủ mất tích…

Cần sớm được xử lý

Hiện nay, Bộ LĐ-TB&XH đang lấy ý kiến góp ý dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 28/2015/NĐ-CP về BH thất nghiệp với rất nhiều điểm mới, ưu việt hơn cho NLĐ như: Hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghề tối đa 1,5 triệu đồng/người/tháng; cơ quan BHXH cấp thẻ BHYT và trao cho NLĐ cùng với thời điểm nhận quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp...

Tuy nhiên, theo Luật sư Nguyễn Giang Nam (Đoàn Luật sư TP.HCM), một trong những vấn đề đáng quan tâm nhất hiện nay, đó là nhiều NLĐ thất nghiệp thực sự nhưng lại không được hưởng trợ cấp. Đây là vấn đề rất cần được quan tâm xử lý sớm. Cũng theo Luật sư Nam, cơ quan chức năng cần tạo điều kiện thông thoáng hơn cho đối tượng này được hưởng trợ cấp thất nghiệp, bởi họ mới là đối tượng thất nghiệp đúng nghĩa nhất. “Về quy định pháp luật liên quan, Luật Việc làm cũng không hề đặt ra yêu cầu về “tháng liền kề” mà nó được quy định ở văn bản hướng dẫn là Nghị định 28/2015/NĐ-CP. Nếu luật không quy định thì cũng không nên đặt ra để làm khó NLĐ”- Luật sư Nam nói.

Luật sư Nam cũng phân tích thêm, ở chiều hướng ngược lại, các quy định pháp luật và quy trình thực hiện như hiện nay dường như đang tạo kẽ hở cho những đối tượng không thất nghiệp được nhận trợ cấp… thất nghiệp một cách dễ dàng. Thực tế cho thấy, nhiều NLĐ có đầy đủ quyết định cho thôi việc của DN, sổ BHXH, mốc xác định thời gian đóng BH thất nghiệp đến tháng cuối cùng - “tháng liền kề”; song đều là những người chủ động nghỉ việc - thực chất là “nhảy việc”. Vì vậy, họ mới có bộ “hồ sơ đẹp” để đi đăng ký thất nghiệp và đương nhiên những hồ sơ này nhanh chóng được duyệt. Còn những người, vì những lý do khách quan, có khi lại thuộc diện “không đủ điều kiện”…

(Nguồn: Baobaohiemxahoi.vn; Xem chi tiết tại đây)

VIII.   Đảm bảo tốt quyền lợi của người tham gia BHXH theo quy định của pháp luật

Xung quang việc Công ty ALCII (thuộc Agribank) phá sản và nguyên lãnh đạo BHXH Việt Nam bị cơ quan Công an khởi tố bắt tạm giam, đã xuất hiện một số tin đồn thất thiệt dễ gây hiểu lầm là sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của người tham gia BHXH. Trao đổi với phóng viên về vấn đề này, Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Trần Đình Liệu cho biết:

- Đây là vụ việc đáng tiếc cách đây gần 10 năm đã được các cơ quan có thẩm quyền kết luận. Ngay sau khi cơ quan Công an khởi tố vụ án và bắt tạm giam một số cán bộ và nguyên lãnh đạo, BHXH Việt Nam đã có Công văn gửi các cơ quan báo chí, BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nêu rõ quan điểm của BHXH Việt Nam.

Bên cạnh việc khẳng định quan điểm nhất quán của BHXH Việt Nam là thực hiện nhiệm vụ trên tinh thần thượng tôn pháp luật, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia BHXH, BHXH Việt Nam khẳng định, trong mọi trường hợp, quyền lợi của người tham gia BHXH, BHYT luôn được đảm bảo theo quy định của pháp luật.

Cùng với đó, BHXH Việt Nam cũng yêu cầu BHXH các tỉnh, thành phố đẩy mạnh tuyên truyền về tính nhân văn, ưu việt, lợi ích của chính sách BHXH, BHYT đến NLĐ và nhân dân, đặc biệt là NLĐ trong các KCX-KCN, trong đó nhấn mạnh quyền bảo đảm an sinh xã hội của công dân đã được quy định tại Hiến pháp Việt Nam và trong mọi trường hợp, quyền lợi của người tham gia BHXH, BHYT luôn được đặt là mục tiêu tối thượng.

* PV: Ông có thể đưa ra những khuyến cáo đối với người dân, đặc biệt là công nhân lao động ở những KCN?

- Với những cam kết trên của BHXH Việt Nam, mong rằng NLĐ và nhân dân hãy tin tưởng chính sách BHXH là chính sách an sinh xã hội lớn của Đảng và Nhà nước. Pháp luật nước Cộng hòa XHCN Việt Nam bảo hộ quyền được an sinh xã hội của tất cả công dân. Trong mọi trường hợp, quyền lợi của người tham gia BHXH luôn được đảm bảo. Người dân hãy yên tâm và tiếp tục tham gia BHXH, không nên vì tin đồn mà hưởng BHXH một lần hay tự mình rút khỏi lưới an sinh, vì như vậy sẽ rất thiệt thòi.

Bằng chứng là, dù vụ việc xảy ra cách đây đã 10 năm, nhưng trong 10 năm qua, quyền lợi của người tham gia BHXH luôn được đảm bảo. Bình quân mỗi tháng có khoảng 2,8 triệu người đang được cơ quan BHXH chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng, với số tiền chi trả bình quân mỗi tháng hàng ngàn tỉ đồng. Riêng trong năm 2017, tổng số tiền chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH là trên 270 ngàn tỉ đồng; 10 tháng đầu năm 2018, số tiền chi trả các chế độ lương hưu, trợ cấp BHXH là trên 252 ngàn tỉ đồng.

Việc chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH không ngừng được cải tiến, đa dạng hóa hình thức chi trả (trả tiền mặt tại điểm chi trả, trả qua thẻ ATM, trả tại nhà với những người cao tuổi, sức khỏe yếu…); thời gian chi trả được rút ngắn và cố định hằng tháng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH hằng tháng.

Chúng tôi cũng mong muốn các cơ quan báo chí truyền thông sẽ tiếp tục đồng hành với BHXH Việt Nam trong việc truyền đi những thông điệp về tính nhân văn, ưu việt, lợi ích của chính sách, để mọi người dân nhận thức sâu sắc quyền lợi và trách nhiệm của mình, không bị dao động trước những thông tin không đúng và tránh bị kẻ xấu lợi dụng vào những mục đích khác.

* BHXH Việt Nam sẽ làm gì để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia BHXH, thưa ông?

- Tôi xin nhắc lại rằng, quan điểm của BHXH Việt Nam là thực hiện nhiệm vụ trên tinh thần thượng tôn pháp luật. Do vậy, mọi quyền lợi của người tham gia BHXH sẽ được BHXH Việt Nam bảo đảm theo quy định của pháp luật.

Chúng tôi sẽ phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có liên quan để không ngừng hoàn thiện các cơ chế chính sách và quy trình tổ chức thực hiện chính sách BHXH, BHYT, để không những bảo đảm quyền lợi cho người tham gia BHXH, mà còn hướng tới phục vụ người tham gia BHXH ngày một tốt hơn, nhằm khẳng định và củng cố niềm tin của nhân dân và NLĐ vào chính sách BHXH, BHYT- hai chính sách trụ cột chính, quan trọng của hệ thống chính sách an sinh xã hội quốc gia.

(Nguồn: Baobaohiemxahoi.vn; Xem chi tiết tại đây)

Bkav