Bảo hiểm Xã hội điện tử tháng 2/2019

Bấm vào để phóng to

I. Hướng dẫn thông báo cho Bkav khi gặp vấn đề cần hỗ trợ

Trong quá trình kê khai Bảo hiểm xã hội điện tử trên Bkav IVAN, nếu gặp vấn đề cần hỗ trợ, Quý Khách hàng vui lòng thông báo cho Bkav theo 1 trong 4 cách dưới đây:

  • Cách 1: Chat trực tiếp tại link https://m.me/BkavIVAN (cách nhanh nhất để được hỗ trợ hiệu quả)
  • Cách 2: Gửi mail tới Trung tâm Chăm sóc khách hàng Bkav CA qua địa chỉ BkavCA@bkav.com với nội dung mà Bạn cần hỗ trợ, Bkav sẽ phản hồi lại Bạn trong thời gian sớm nhất.
  • Cách 3: Liên hệ tổng đài 1900 1854.
  • Cách 4: Xử lý vấn đề đang gặp phải theo các bước đơn giản trong bài hướng dẫn tại http://bkavca.vn/huong-dan hoặc tìm kiếm thông tin hướng dẫn về nghiệp vụ, cách sử dụng phần mềm tại https://hotro.bkav.com.

II. Hướng dẫn mới về thủ tục hưởng Bảo hiểm thất nghiệp

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đề nghị không đưa các thủ tục thực hiện về bảo hiểm thất nghiệp vào trong Trung tâm Phục vụ hành chính công, khiến người lao động phải đi lại nhiều lần và ở nhiều nơi trong quá trình hưởng bảo hiểm thất nghiệp.

Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (LĐ-TB-XH) vừa ban hành Công văn 62/LĐTBXH-VL gửi Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố về việc thực hiện bảo hiểm thất nghiệp (BHTN).

Theo Công văn này, việc giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp (TCTN) không chỉ là tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả mà còn là tư vấn, giới thiệu việc làm, hỗ trợ học nghề nhằm hỗ trợ người lao động (NLĐ) nhanh chóng tìm được việc làm mới.

Vì vậy, các địa phương chỉ thực hiện thủ tục hưởng các chế độ BHTN tại Trung tâm Dịch vụ việc làm thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội theo quy định của Luật Việc làm. Không đưa các thủ tục thực hiện về BHTN vào trong Trung tâm Phục vụ hành chính công, khiến người lao động (NLĐ) phải đi lại nhiều lần và ở nhiều nơi trong quá trình hưởng BHTN.

(Nguồn: Nld.com.vn; Xem chi tiết tại đây)

III. Bộ Y tế ban hành 9 thủ tục hành chính mới liên quan lĩnh vực BHYT

Bộ Y tế vừa ban hành Quyết định số 7291/QĐ-BYT về việc công bố thủ tục hành chính (TTHC) mới trong lĩnh vực bảo hiểm y tế (BHYT), thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Y tế - được quy định tại Nghị định số 146/2018/NĐ-CP ngày 17/10/2018 của Chính phủ.

Theo đó, Quyết định số 7291 sẽ được công bố cùng 9 TTHC mới ban hành, gồm:

  • Cấp thẻ BHYT lần đầu; cấp lại thẻ BHYT;
  • Đổi thẻ BHYT;
  • Thủ tục khám chữa bệnh (KCB) BHYT;
  • Ký hợp đồng KCB BHYT lần đầu;
  • Ký hợp đồng KCB BHYT đối với cơ sở KCB được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt bổ sung chức năng, nhiệm vụ, phạm vi chuyên môn, hạng BV trong việc thực hiện KCB;
  • Ký hợp đồng KCB BHYT hàng năm;
  • Thanh toán chi phí KCB giữa cơ sở KCB và cơ quan BHXH;
  • Thanh toán trực tiếp chi phí KCB giữa cơ quan BHXH và người tham gia BHYT.

Cụ thể, đối với thủ tục cấp thẻ BHYT được thực hiện trực tiếp tại cơ quan BHXH tỉnh, huyện cho các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình tham gia BHYT. Thành phần hồ sơ gồm:

  • Tờ khai tham gia, điều chỉnh thông tin BHYT (do BHXH Việt Nam ban hành);
  • Danh sách đối tượng tham gia BHYT của tổ chức, cá nhân lập theo Mẫu số 2 (Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 146);
  • Tờ khai tham gia, điều chỉnh thông tin BHYT của người tham gia BHYT theo hộ gia đình, danh sách thành viên hộ gia đình tham gia BHYT lập theo Mẫu số 3 (Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định 146).

Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan BHXH phải chuyển thẻ BHYT cho cơ quan, tổ chức quản lý đối tượng hoặc cho người tham gia BHYT.

Đối với thủ tục cấp lại thẻ BHYT, gồm:

  • Tờ khai tham gia, điều chỉnh thông tin BHYT do BHXH Việt Nam ban hành;
  • Giấy tiếp nhận hồ sơ, hẹn trả kết quả cấp lại thẻ BHYT theo Mẫu số 4 (Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định 146). Trường hợp thẻ BHYT được cấp lại khi người tham gia BHYT bị mất thẻ; trường hợp thẻ BHYT bị lỗi do cơ quan BHXH hoặc cơ quan lập danh sách. Trong thời gian chờ cấp lại thẻ, người tham gia BHYT vẫn được hưởng quyền lợi BHYT.

Khi tiến hành thủ tục đổi thẻ BHYT, người tham gia BHYT ghi thông tin vào Tờ khai tham gia, điều chỉnh thông tin BHYT do BHXH Việt Nam ban hành và nộp hồ sơ tại bộ phận "Một cửa" của cơ quan BHXH tỉnh, huyện nơi đăng ký, chờ ký trong giấy tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả cấp lại thẻ BHYT theo Mẫu số 4 (Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 146). Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, tổ chức BHXH đổi thẻ BHYT cho người tham gia.

Về thủ tục KCB BHYT được thực hiện trực tiếp tại các cơ sở KCB, tạo điều kiện thuận lợi cho người bệnh có thẻ BHYT được giải quyết quyền lợi KCB. Đồng thời, khi đến cơ sở KCB để điều trị, người bệnh cần mang theo thẻ BHYT và giấy tờ chứng minh về nhân thân của người đó; đối với trẻ em dưới 6 tuổi phải xuất trình thẻ BHYT, bản sao giấy chứng sinh hoặc bản sao giấy khai sinh. Trong trường hợp cấp cứu, người tham gia BHYT được KCB tại bất kỳ cơ sở KCB nào và phải xuất trình thẻ BHYT cùng với giấy tờ theo quy định. Trường hợp chuyển tuyến điều trị hoặc khám lại theo yêu cầu điều trị, người bệnh phải có hồ sơ chuyển viện hoặc giấy hẹn khám lại của cơ sở KCB.

Đối với việc thanh toán trực tiếp chi phí KCB giữa cơ quan BHXH và người tham gia BHYT, người bệnh hoặc thân nhân, người đại diện hợp pháp theo quy định của pháp luật phải trực tiếp nộp hồ sơ cho cơ quan BHXH cấp huyện nơi cư trú. Cơ quan BHXH cấp huyện có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ, hướng dẫn bổ sung đối với các hồ sơ còn thiếu và trong thời hạn 40 ngày phải hoàn thành việc giám định BHYT và thanh toán chi phí KCB cho người bệnh. Trường hợp không thanh toán cần phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Việc thanh toán chi phí KCB được thực hiện trực tiếp giữa cơ quan BHXH và cơ sở KCB. Đáng chú ý, trong thời hạn 15 ngày đầu mỗi tháng, cơ sở KCB BHYT có trách nhiệm gửi bản tổng hợp đề nghị thanh toán chi phí KCB BHYT của tháng trước cho cơ quan BHXH. Bên cạnh đó, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày thông báo số quyết toán chi phí KCB BHYT, cơ quan BHXH phải hoàn thành việc thanh toán đối với cơ sở KCB.

Đối với các thủ tục ký hợp đồng KCB BHYT lần đầu giữa cơ sở KCB và cơ quan BHXH; ký hợp đồng KCB BHYT đối với cơ sở KCB được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt bổ sung chức năng, nhiệm vụ, phạm vi chuyên môn, hạng BV trong việc thực hiện KCB; ký hợp đồng KCB BHYT hàng năm, sau khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ của cơ sở KCB, cơ quan BHXH phải thực hiện xong việc xem xét hồ sơ và ký hợp đồng. Trong trường hợp không đồng ý ký hợp đồng thì phải có văn bản trả lời và nêu rõ lý do.

(Nguồn: Baobaohiemxahoi.vn; Xem chi tiết tại đây)

IV. Điều chỉnh cách tính giá khám, chữa bệnh BHYT từ đầu năm 2019

Theo Thông tư số 39 vừa được Bộ Y tế ban hành, có hiệu lực từ ngày 15/01/2019 tới đây, chi phí tiền lương cho cán bộ y tế cũng sẽ được tính vào giá khám bệnh, ngày giường bệnh và các dịch vụ kỹ thuật y tế…

Bộ Y tế vừa ban hành Thông tư số 39/2018/TT-BYT Quy định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh BHYT giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc và hướng dẫn áp dụng giá, thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh trong một số trường hợp. Thông tư này thay thế cho Thông tư số 15/2018/TT-BYT ngày 30/05/2018 của Bộ Y tế.

Điểm đáng chú ý, Thông tư 39 quy định rõ nguyên tắc áp dụng giá dịch vụ đối với các cơ sở y tế có ký hợp đồng khám, chữa bệnh BHYT; Xác định số lần, mức giá và thanh toán tiền khám bệnh trong một số trường hợp cụ thể; Xác định số ngày giường, áp dụng mức giá và thanh toán tiền ngày giường giữa cơ quan bảo hiểm xã hội và cơ sở y tế.

So với Thông tư 15, Thông tư số 39 vừa được ban hành có một số điểm mới như quy định: “Trường hợp người bệnh vào viện và ra viện có thời gian điều trị từ 4 giờ trở xuống thì được thanh toán tiền khám bệnh, tiền thuốc, vật tư y tế và các dịch vụ kỹ thuật mà người bệnh đã sử dụng, không được tính tiền giường điều trị nội trú”.

Thông tư mới cũng bổ sung mức giá khám bệnh của trạm y tế xã, phường, thị trấn, trạm y tế cơ quan, đơn vị, tổ chức, trường học, trạm y tế kết hợp quân dân y sẽ áp dụng mức giá của trạm y tế xã.

Đặc biệt, mức giá các dịch vụ kỹ thuật bằng 70% mức giá của các dịch vụ tại Phụ lục III của Thông tư 39, thay vì căn cứ vào mức giá của bệnh viện hạng IV theo Thông tư 15 hiện nay.

Đặc biệt, Thông tư này cho tính chi phí tiền lương tính trong giá khám bệnh, ngày giường bệnh và các dịch vụ kỹ thuật y tế, gồm: Tiền lương ngạch bậc, chức vụ, các khoản phụ cấp, các khoản đóng góp theo chế độ do Nhà nước quy định đối với đơn vị sự nghiệp công lập và mức lương cơ sở quy định tại Nghị định số 72/2018/NĐ-CP của Chính phủ; Phụ cấp thường trực, phụ cấp phẫu thuật, thủ thuật theo Quyết định số 73/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Thông tư 39 sẽ có hiệu lực từ ngày 15/01/2019. Riêng mức giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh theo mức lương cơ sở quy định tại Nghị định số 72/2018/NĐ-CP của Chính phủ nêu trên tại Phụ lục I, II, III của Thông tư 39 được áp dụng kể từ ngày 15/12/2018.

(Nguồn: Anninhthudo.vn; Xem chi tiết tại đây)

V. Mức đóng BHYT theo hộ gia đình năm 2019

Mức đóng BHYT của các thành viên theo hộ gia đình phụ thuộc vào mức lương cơ sở. Theo đó, từ ngày 01/07/2019, mức lương cơ sở tăng nên mức đóng BHYT hộ gia đình cũng sẽ tăng lên tương ứng.

Cụ thể, tại Khoản 8 Điều 4 Nghị định 70/2018/QH14 về dự toán ngân sách nhà nước năm 2019 quy định: Thực hiện điều chỉnh mức lương cơ sở từ 1,39 triệu đồng/tháng lên 1,49 triệu đồng/tháng, điều chỉnh lương hưu, trợ cấp BHXH, trợ cấp hàng tháng theo quy định (đối tượng do ngân sách nhà nước bảo đảm) và trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng tăng bằng mức lương cơ sở, thời điểm thực hiện là 01 tháng 7 năm 2019.

Còn tại Điều 3 Nghị định 72/2018/NĐ-CP quy định mức lương cơ sở đối với cán bô, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang quy định: Từ ngày 01 tháng 7 năm 2018, mức lương cơ sở là 1.390.000 đồng/tháng. Do đó, mức lương cơ sở từ ngày 01/01/2019 đến 30/6/2019 vẫn là 1,39 triệu đồng/tháng.

Theo điểm e Khoản 1 Điều 7 Nghị định 146/2018/NĐ-CP hướng dẫn Luật BHYT quy định mức đóng BHYT của đối tượng hộ gia đình: Người thứ nhất đóng bằng 4,5% mức lương cơ sở; người thứ hai, thứ ba, thứ tư đóng lần lượt bằng 70%, 60% và 50% mức đóng của người thứ nhất; từ người thứ năm trở đi đóng bằng 40% mức đóng của người thứ nhất.

Việc giảm trừ mức đóng BHYT theo quy định tại điểm này được thực hiện khi các thành viên tham gia BHYT theo hộ gia đình cùng tham gia trong năm tài chính.

Vì vậy, mức đóng BHYT theo hộ gia đình năm 2019 sẽ có những thay đổi, cụ thể như sau:

Mức đóng

Từ 01/01/2019 đến 30/6/2019

(Mức lương cơ sở hiện hành 1.390.000 đồng/tháng)

Từ ngày 01/7/2019 trở đi

(Mức lương cơ sở mới 1.490.000 đồng/tháng)

Người thứ nhất

62.550 đồng/tháng;

1 năm là 750.600 đồng

67.050 đồng/tháng;

1 năm là 804.600 đồng

Người thứ hai

43.785 đồng/tháng;

1 năm là 525.420 đồng

46.935 đồng/tháng;

1 năm là 563.220 đồng

Người thứ ba

37.530 đồng/tháng;

1 năm là 450.360 đồng

40.230 đồng/tháng;

1 năm là 482.760 đồng

Người thứ tư

31.275 đồng/tháng;

1 năm là 375.300 đồng

33.525 đồng/tháng;

1 năm là 402.300 đồng

Từ người thứ năm trở đi

25.020 đồng/tháng;

1 năm là 300.240 đồng

26.820 đồng/tháng;

1 năm là 321.840 đồng

(Nguồn: Bhxhhn.com.vn; Xem chi tiết tại đây)

VI. Đề xuất tăng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội từ ngày 01/07/2019

Bộ LĐ-TB&XH đang dự thảo Nghị định điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hàng tháng. Theo đó, từ ngày 01/07/2019, mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hàng tháng của 8 nhóm đối tượng sẽ tăng thêm 7,19%.

Bộ LĐ-TB&XH cho biết, Bộ đề xuất mức điều chỉnh tăng 7,19% (bằng tốc độ tăng mức lương cơ sở từ 1.390.000 đồng/tháng lên 1.490.000 đồng/tháng) trên mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hàng tháng của tháng 6-2019 đối với 8 nhóm đối tượng gồm:

  • Cán bộ, công chức, công nhân, viên chức và người lao động (kể cả người có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, người nghỉ hưu từ quỹ bảo hiểm xã hội nông dân Nghệ An chuyển sang theo Quyết định số 41/2009/QĐ-TTg; quân nhân, công an nhân dân và người làm công tác cơ yếu đang hưởng lương hưu hàng tháng trước ngày 01/07/2019.
  • Cán bộ xã, phường, thị trấn quy định tại Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, Nghị định số 122/2003/NĐ-CP và Nghị định số 09/1998/NĐ-CP của Chính phủ đang hưởng lương hưu, trợ cấp hàng tháng trước ngày 01/07/2019.
  • Người đang hưởng trợ cấp mất sức lao động hàng tháng theo quy định của pháp luật; người đang hưởng trợ cấp hàng tháng theo Quyết định số 91/2000/QĐ-TTg, Quyết định số 613/2010/QĐ-TTg; công nhân cao su đang hưởng trợ cấp hàng tháng trước ngày 01/07/2019.
  • Cán bộ xã, phường, thị trấn đang hưởng trợ cấp hàng tháng theo Quyết định số 130/CP ngày 20-6-1975 của Hội đồng Chính phủ và Quyết định số 111-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng trước ngày 01/07/2019.
  • Quân nhân đang hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng theo Quyết định số 142/2008/QĐ-TTg, Quyết định số 38/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ trước ngày 01/07/2019.
  • Công an nhân dân đang hưởng trợ cấp hàng tháng theo Quyết định số 53/210/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ trước ngày 01/07/2019.
  • Quân nhân, công an nhân dân, người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân, công an nhân dân đang hưởng trợ cấp hàng tháng theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ trước ngày 01/07/2019.
  • Người đang hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng trước ngày 01/07/2019.

Về kinh phí điều chỉnh, Bộ LĐ-TBX&XH đề xuất, đối với các đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm xã hội trước ngày 1/10/1995; hưởng trợ cấp hàng tháng theo Quyết định số 91/2000/QĐ-TTg ngày 4/8/2000, Quyết định số 613/QĐ-TTg ngày 6/5/2010 của Thủ tướng Chính phủ; người hưởng lương hưu theo Nghị định số 159/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006, Nghị định số 11/2011/NĐ-CP ngày 30/1/2011 của Chính phủ và công nhân cao su đang hưởng trợ cấp hàng tháng do ngân sách nhà nước bảo đảm.

Số đối tượng được điều chỉnh tại thời điểm tháng 6/2019 ước là 1,016,340 người, dự kiến kinh phí tăng thêm trong năm 2019 (6 tháng) là 1.454 tỷ đồng.

Đối với các đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm xã hội từ ngày 1/10/1995 trở đi, kể cả đối tượng đang hưởng lương hưu, trợ cấp hàng tháng theo Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009, Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 và Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998 của Chính phủ do quỹ bảo hiểm xã hội bảo đảm.

Số đối tượng được điều chỉnh tại thời điểm tháng 6/2019 ước là 1,872,046 người, dự kiến kinh phí tăng thêm trong năm 2019 (6 tháng) là 4.335 tỷ đồng.

Đối với cán bộ xã, phường, thị trấn đang hưởng trợ cấp hàng tháng theo Quyết định số 130/CP ngày 20/6/1975 của Hội đồng Chính phủ và Quyết định số 111-HĐBT ngày 13/10/1981 của Hội đồng Bộ trưởng thì kinh phí điều chỉnh được tổng hợp từ nguồn kinh phí địa phương.

Đối với quân nhân đang hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng theo Quyết định số 142/2008/QĐ-TTg ngày 27/10/2008, Quyết định số 38/2010/QĐ-TTg ngày 06/5/2010 của Thủ tướng Chính phủ; công an nhân dân đang hưởng trợ cấp hàng tháng theo Quyết định số 53/2010/QĐ-TTg ngày 20/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ; quân nhân, công an nhân dân, người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân, công an nhân dân đang hưởng trợ cấp hàng tháng theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 9/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ thì do ngân sách nhà nước bảo đảm.

(Nguồn: Nld.com.vn; Xem chi tiết tại đây)

VII. Bảo hiểm thất nghiệp: Đẩy nhanh tiến độ thực hiện giao dịch điện tử

Nhằm đẩy nhanh lộ trình bao phủ bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) Chính phủ giao, việc hướng tới thực hiện giao dịch điện tử là xu thế tất yếu mà ngành bảo hiểm xã hội (BHXH), lao động - thương binh và xã hội (LĐ-TB&XH) đang nỗ lực đẩy mạnh.

Với mục tiêu đó, Bộ LĐ-TB&XH đang tổ chức lấy ý kiến góp ý công khai Thông tư hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 166/2016/NĐ-CP ngày 24/12/2016 của Chính phủ quy định về giao dịch điện tử trong lĩnh vực BHXH, bảo hiểm y tế (BHYT) và BHTN.

Theo đó, thông tư sẽ hướng dẫn về việc: Tham gia BHTN, tiếp nhận giải quyết các chế độ BHTN và trao đổi thông tin liên quan đến thực hiện chế độ BHTN bằng phương thức điện tử; cung cấp các dịch vụ hỗ trợ người lao động (NLĐ), người sử dụng lao động bằng phương thức điện tử, bao gồm: Tra cứu thông tin của NLĐ đang hưởng các chế độ BHTN; thông tin của người sử dụng lao động được hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho NLĐ; gửi các văn bản, thông báo của cơ quan giải quyết chế độ BHTN cho NLĐ, người sử dụng lao động.

Đối tượng áp dụng thông tư gồm: NLĐ, người sử dụng lao động thuộc đối tượng bắt buộc tham gia BHTN theo quy định tại Điều 43 Luật Việc làm. Đơn vị thực hiện việc tiếp nhận hồ sơ giải quyết hưởng các chế độ BHTN (Sở LĐ-TB&XH tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Trung tâm Dịch vụ việc làm do cơ quan quản lý nhà nước về việc làm thành lập được giao các nhiệm vụ theo quy định tại Khoản 2 Điều 38 Luật Việc làm). Đơn vị thực hiện tiếp nhận hồ sơ đóng BHTN và chi trả trợ cấp thất nghiệp (cơ quan BHXH). Cơ quan xây dựng, triển khai và quản lý dữ liệu về BHTN (Cục Việc làm, cơ quan BHXH) cùng các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

Ngoài ra, theo thông tư, giao dịch điện tử trong lĩnh vực này phải thực hiện theo các nguyên tắc rõ ràng, công bằng, trung thực, an toàn, hiệu quả và phù hợp với quy định của Luật Giao dịch điện tử; bảo đảm tính liên tục, kịp thời, tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo mật và toàn vẹn thông tin…; cơ quan, tổ chức, cá nhân được quyền lựa chọn giao dịch bằng phương tiện điện tử hoặc giao dịch bằng phương thức truyền thống trong lĩnh vực BHTN.

Thông tư cũng nhấn mạnh, điều kiện thực hiện giao dịch điện tử BHTN đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân phải có chứng thư số đang còn hiệu lực do tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng cấp hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận. Trường hợp cá nhân thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực BHTN nhưng chưa được cấp chứng thư số thì được sử dụng mã xác thực giao dịch điện tử do Cục Việc làm cấp. Mặt khác, phải có khả năng truy cập, sử dụng mạng internet; có địa chỉ thư điện tử liên lạc ổn định và đăng ký với Cục Việc làm. Các giấy tờ ở dạng chứng từ giấy phải còn giá trị pháp lý để tài liệu chứng từ điện tử có giá trị pháp lý tương đương. Đặc biệt, NLĐ, người sử dụng lao động khi thực hiện các giao dịch điện tử phải có tài khoản giao dịch điện tử để đăng nhập vào cổng thông tin điện tử.

Đánh giá những đổi mới về phương thức giao dịch điện tử cho thấy, đây là xu thế tất yếu và cũng là một trong những nhiệm vụ đã được đề cập đến trong Nghị quyết số 28-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII về cải cách chính sách BHXH. Theo đó, yêu cầu cấp thiết là cần cải cách trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách nhằm củng cố niềm tin, tăng mức độ hài lòng của người tham gia vào hệ thống BHXH.

Cụ thể, Nghị quyết yêu cầu các bộ, ngành cần đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, đơn giản hóa các quy trình, thủ tục đăng ký, đóng - hưởng BHXH, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ BHXH theo hướng thân thiện, công khai, minh bạch, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Đồng thời, tiếp tục hiện đại hóa quản lý BHXH, đầu tư phát triển công nghệ và phương pháp quản lý tiên tiến trong tổ chức thực hiện BHXH, BHTN. Kịp thời ngăn chặn tình trạng gian lận, trục lợi chính sách BHXH, BHTN. Trong đó, Nghị quyết đặc biệt nhấn mạnh, yêu cầu triển khai có hiệu quả các chính sách BHTN, phát huy đầy đủ các chức năng của BHTN, bảo đảm BHTN thực sự là công cụ quản trị thị trường lao động.

Hiện, Dự thảo Thông tư này đang được Bộ LĐ-TB&XH tổ chức lấy ý kiến công khai trên Cổng Thông tin điện tử của Bộ từ ngày 12/11/2018 - 12/01/2019.

Giao dịch điện tử là xu thế tất yếu để thực hiện bao phủ bảo hiểm thất nghiệp.

(Nguồn: Congthuong.vn; Xem chi tiết tại đây)

VIII. BHXH Hà Nội tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, cắt giảm TTHC

Nhờ ứng dụng công nghệ thông tin, cắt giảm thủ tục hành chính, Bảo hiểm Xã hội Hà Nội đã rút ngắn thời gian, chi phí giải quyết thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp.

Thời gian qua, Bảo hiểm Xã hội (BHXH) Hà Nội đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm đơn giản hóa, rút ngắn tối đa thời gian thực hiện các thủ tục hành chính (TTHC) về BHXH, BHYT, BHTN cho cá nhân, tổ chức khi giao dịch với cơ quan bảo hiểm.

Chẳng hạn, nếu như trước đây, để giải quyết TTHC đối với chế độ ốm đau, thai sản sẽ mất khoảng 15 ngày, thì hiện nay chỉ còn 10 ngày; hay như việc chốt sổ BHXH đối với người đóng bảo hiểm thôi việc, giờ chỉ còn 5 ngày. Người lao động cũng không cần mang sổ đến cơ quan bảo hiểm, mà chỉ cần căn cứ vào báo giảm của đơn vị qua phần mềm điện tử (TST) là cán bộ bảo hiểm có thể tự động chốt sổ, trả tờ rời đến tận tay người lao động thông qua bưu điện.

BHXH Hà Nội hiện đang thực hiện 29 bộ TTHC và tiếp tục xem xét, đề xuất cắt giảm thêm một số TTHC theo hướng tạo thuận lợi nhất cho người dân, doanh nghiệp. Không chỉ cắt giảm thủ tục, cơ quan này còn thực hiện niêm yết công khai, minh bạch các TTHC tại bộ phận một cửa ở trụ sở cơ quan bảo hiểm quận, huyện, thị xã, giúp người dân thực hiện thủ tục đơn giản, không phải đi lại nhiều lần.

Ông Nguyễn Đức Hòa, Giám đốc BHXH Hà Nội cho TTXVN biết, việc lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ là phương châm, mục tiêu mà đơn vị kiên định bám sát, để từ đó không ngừng cải cách TTHC và ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT), làm tăng mức độ hài lòng của người dân.

Theo Giám đốc BHXH Hà Nội, cải cách TTHC không thể tách rời CNTT, vì nếu không áp dụng CNTT trong cải cách TTHC không bao giờ BHXH Hà Nội đủ cán bộ để giám định hàng triệu hồ sơ khám chữa bệnh trong một năm. Chính vì thế, đơn vị đặc biệt coi trọng việc ứng dụng CNTT vào công tác nghiệp vụ, quản lý điều hành, cải cách TTHC.

Không những thế, BHXH cũng chủ động chia sẻ, kết nối dữ liệu với các đơn vị ngoài ngành, đa dạng hóa hình thức và phương thức giao dịch, tạo thuận lợi cho cơ quan, đơn vị, người dân trong việc giao dịch, thụ hưởng chế độ.

Từ năm 2012, BHXH Hà Nội đã xây dựng và triển khai áp dụng phần mềm một cửa điện tử, phần mềm quản lý văn bản và điều hành; triển khai giao dịch hồ sơ điện tử; thực hiện quản lý bằng phần mềm việc tiếp nhận-luân chuyển-giải quyết-trả kết quả hồ sơ TTHC liên thông giữa các phòng, bộ phận nghiệp vụ và giữa BHXH Thành phố với BHXH các quận, huyện…

Đây là một bước cải tiến lớn trong công tác cải cách TTHC, hạn chế tình trạng thất lạc hồ sơ, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của từng khâu nghiệp vụ, góp phần công khai, minh bạch hóa quy trình giải quyết chế độ, chính sách, từ đó nâng cao tinh thần, thái độ và phong cách phục vụ của đội ngũ viên chức trong toàn hệ thống.

Năm 2018, BHXH Hà Nội giải quyết gần 9 triệu hồ sơ hành chính về BHXH, BHYT; 100% TTHC được thực hiện tiếp nhận và trả kết quả thông qua hệ thống phần mềm một cửa điện tử. Đến hết năm 2018, số đơn vị thực hiện giao dịch hồ sơ điện tử đạt 97,3%, trong đó các đơn vị là doanh nghiệp có trên 10 lao động thực hiện giao dịch điện tử đạt 98%.

Năm 2019 và những năm tiếp theo, BHXH Hà Nội tiếp tục đẩy mạnh giao dịch hồ sơ điện tử với trên 2.000 doanh nghiệp còn lại để đạt 100% đơn vị sử dụng lao động tham gia giao dịch điện tử trong công tác thu, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT; tăng cường công tác giám định điện tử, thanh toán và kiểm soát chi phí khám, chữa bệnh BHYT qua hệ thống thông tin giám định.

(Nguồn: Baochinhphu.vn; Xem chi tiết tại đây)

Bkav